Tổng quan nghiên cứu
Tiêm an toàn (TAT) là một trong những kỹ thuật y tế phổ biến và quan trọng nhằm đảm bảo an toàn cho người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tiêm không an toàn gây ra khoảng 1,3 triệu ca tử vong sớm mỗi năm và hàng triệu năm sống bị mất đi do các bệnh lây truyền qua đường máu như viêm gan B, viêm gan C và HIV. Tại Việt Nam, tỷ lệ tiêm an toàn vẫn còn thấp, với khoảng 80% mũi tiêm không đạt đủ các tiêu chuẩn an toàn theo đánh giá của Bộ Y tế. Bệnh viện Sản - Nhi Hưng Yên, với quy mô 200 giường bệnh và 4 khoa lâm sàng hệ Nhi, là nơi có lực lượng điều dưỡng trẻ, nhiều người chưa có kinh nghiệm chuyên môn sâu, đặt ra thách thức trong việc đảm bảo thực hành tiêm an toàn.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2015 nhằm mục tiêu: (1) mô tả kiến thức và thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng tại 4 khoa lâm sàng hệ Nhi của Bệnh viện Sản - Nhi Hưng Yên; (2) xác định các yếu tố liên quan đến thực hành tiêm an toàn. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp số liệu khoa học, làm cơ sở cho các can thiệp nâng cao chất lượng chăm sóc và giảm thiểu nguy cơ tai biến do tiêm không an toàn tại bệnh viện, góp phần cải thiện các chỉ số an toàn người bệnh theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên mô hình lý thuyết Precede – Proceed, phân nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn thành ba nhóm chính:
- Nhóm yếu tố tiền đề: đặc điểm nhân khẩu học (tuổi, giới, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác), thái độ về tiêm an toàn.
- Nhóm yếu tố tăng cường: thông tin về tiêm an toàn, đào tạo, tập huấn, công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, hình thức thưởng/phạt.
- Nhóm yếu tố tạo điều kiện: tổ chức, quản lý nhân lực, sắp xếp công việc, trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ tiêm truyền và phòng hộ cá nhân.
Các khái niệm chính bao gồm: tiêm an toàn, tiêm không an toàn, nguyên tắc thực hành tiêm an toàn, kiểm soát nhiễm khuẩn, xử lý vật sắc nhọn, và các tiêu chuẩn đánh giá kiến thức và thực hành tiêm an toàn theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp định lượng và định tính. Đối tượng nghiên cứu là 42 điều dưỡng viên trực tiếp thực hiện tiêm và truyền tại 4 khoa lâm sàng hệ Nhi của Bệnh viện Sản - Nhi Hưng Yên. Cỡ mẫu được xác định dựa trên công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả với tỷ lệ mũi tiêm an toàn ước tính là 32,1%, độ chính xác 5%, cho kết quả cần quan sát 334 mũi tiêm. Thực tế, nghiên cứu quan sát 336 mũi tiêm (mỗi điều dưỡng thực hiện 8 mũi: 4 tiêm tĩnh mạch và 4 truyền tĩnh mạch).
Phương pháp thu thập số liệu gồm:
- Quan sát thực hành: sử dụng bảng kiểm 21 tiêu chuẩn đánh giá thực hành tiêm an toàn.
- Phát vấn kiến thức: bảng hỏi gồm 42 câu hỏi về kiến thức tiêm an toàn.
- Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm: với lãnh đạo bệnh viện, điều dưỡng trưởng và điều dưỡng viên nhằm làm rõ nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
Phân tích số liệu định lượng bằng phần mềm SPSS 18 với mức ý nghĩa thống kê p<0,05, sử dụng tỷ số chênh (OR) để xác định mức độ liên quan. Số liệu định tính được mã hóa và phân tích theo nhóm chủ đề.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: 85,7% điều dưỡng là nữ, 78,6% dưới 30 tuổi, 81% trình độ trung cấp, 76,2% có kinh nghiệm công tác ≤5 năm. Khoa Hồi sức cấp cứu – Ngoại chuyên khoa chiếm tỷ lệ điều dưỡng cao nhất (40,4%).
Kiến thức về tiêm an toàn: Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt chuẩn (≥80% điểm) chỉ đạt 38,1%. Khoa Nội Nhi có tỷ lệ cao nhất (44,4%), thấp nhất là khoa Hồi sức cấp cứu – Ngoại chuyên khoa (35,3%). 97,6% điều dưỡng hiểu đúng khái niệm tiêm an toàn, nhưng chỉ 35,7% biết biện pháp tiêm thuốc kháng sinh phòng sốc phản vệ đúng cách.
Thực hành tiêm an toàn: Tỷ lệ thực hành tiêm tĩnh mạch đạt chuẩn là 31,5%, truyền tĩnh mạch đạt 33,9%. Các bước chuẩn bị người bệnh và điều dưỡng đạt 83,9%, tuy nhiên chỉ 64,9% sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân đầy đủ. Tỷ lệ rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi tiêm đạt 80,4%, nhưng chỉ 44% có dung dịch sát khuẩn tay nhanh trên xe tiêm. Thực hành chuẩn bị thuốc tiêm còn nhiều thiếu sót, chỉ 41,1% kiểm tra, sát khuẩn và bẻ ống thuốc đúng quy định.
Yếu tố liên quan đến thực hành tiêm an toàn: Tuổi, giới, trình độ học vấn, thâm niên công tác, công tác đào tạo tập huấn, tổ chức quản lý, nhân lực, khối lượng công việc, đặc điểm kỹ thuật tiêm truyền trên bệnh nhi và tác động tâm lý đều ảnh hưởng đến thực hành tiêm an toàn. Ví dụ, điều dưỡng được đào tạo trong năm qua có kiến thức tốt hơn gấp 10,3 lần so với nhóm không được đào tạo.
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy kiến thức và thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Sản - Nhi Hưng Yên còn thấp so với yêu cầu, tương đồng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế. Tỷ lệ thực hành tiêm an toàn đạt khoảng 30% phản ánh sự thiếu đồng đều và chưa đồng bộ trong việc tuân thủ quy trình kỹ thuật và kiểm soát nhiễm khuẩn. Nguyên nhân chủ yếu là do nhân lực trẻ, thiếu kinh nghiệm, công tác đào tạo chưa thường xuyên và chưa có hệ thống giám sát chặt chẽ.
So sánh với các nghiên cứu tại Hà Nội và các tỉnh khác, tỷ lệ kiến thức và thực hành tiêm an toàn tại bệnh viện này thấp hơn mức trung bình, cho thấy cần có các can thiệp mạnh mẽ hơn. Việc thiếu dụng cụ phòng hộ cá nhân và dung dịch sát khuẩn tay nhanh cũng là điểm yếu cần khắc phục. Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ tỷ lệ kiến thức đạt chuẩn theo khoa và bảng phân tích các bước thực hành tiêm an toàn đạt tỷ lệ thấp nhất để minh họa rõ hơn.
Đề xuất và khuyến nghị
Tổ chức đào tạo, tập huấn định kỳ về tiêm an toàn: Cập nhật nội dung hướng dẫn tiêm an toàn vào chương trình đào tạo lại tại bệnh viện, ưu tiên đào tạo thực hành kết hợp lý thuyết, với mục tiêu nâng tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt chuẩn lên trên 70% trong vòng 12 tháng. Chủ thể thực hiện: phòng Đào tạo và Điều dưỡng trưởng.
Cung ứng đầy đủ trang thiết bị, dụng cụ và phương tiện phòng hộ: Bệnh viện cần đảm bảo cung cấp đủ bơm kim tiêm vô khuẩn, hộp đựng vật sắc nhọn đạt chuẩn, dung dịch sát khuẩn tay nhanh trên xe tiêm, và phương tiện phòng hộ cá nhân phù hợp, nhằm tăng tỷ lệ sử dụng dụng cụ đạt chuẩn lên trên 90% trong 6 tháng tới. Chủ thể thực hiện: Ban Quản lý vật tư y tế.
Xây dựng và triển khai quy trình tiêm truyền phù hợp với đặc thù hệ Nhi: Thiết kế quy trình tiêm truyền ngoại vi chuẩn hóa, dễ áp dụng, phù hợp với đặc điểm kỹ thuật tiêm truyền trên bệnh nhi, nhằm giảm thiểu sai sót kỹ thuật. Chủ thể thực hiện: Ban Chuyên môn và Điều dưỡng trưởng, hoàn thành trong 3 tháng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và áp dụng hình thức thưởng/phạt: Thiết lập hệ thống kiểm tra định kỳ hàng tháng, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ quy trình tiêm an toàn, đồng thời áp dụng các hình thức khen thưởng cho cá nhân, tập thể thực hiện tốt và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm của điều dưỡng viên. Chủ thể thực hiện: Ban Giám đốc và phòng Điều dưỡng.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Ban lãnh đạo bệnh viện: Sử dụng kết quả nghiên cứu để đánh giá thực trạng, xây dựng kế hoạch đào tạo và cải tiến quy trình kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và an toàn người bệnh.
Điều dưỡng trưởng và cán bộ quản lý điều dưỡng: Áp dụng các khuyến nghị để tổ chức đào tạo, giám sát và quản lý nhân lực điều dưỡng, đảm bảo thực hành tiêm an toàn theo tiêu chuẩn.
Điều dưỡng viên lâm sàng hệ Nhi: Nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành tiêm an toàn, tự học tập và tuân thủ quy trình kỹ thuật nhằm giảm thiểu nguy cơ tai biến và phơi nhiễm.
Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng, quản lý bệnh viện: Tham khảo phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành tiêm an toàn để phát triển các nghiên cứu tiếp theo hoặc đề xuất chính sách.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao tỷ lệ thực hành tiêm an toàn tại bệnh viện còn thấp?
Nguyên nhân chính là do nhân lực điều dưỡng trẻ, thiếu kinh nghiệm, công tác đào tạo chưa thường xuyên, thiếu dụng cụ phòng hộ và kiểm soát nhiễm khuẩn chưa chặt chẽ. Ví dụ, chỉ 64,9% điều dưỡng sử dụng đầy đủ phương tiện phòng hộ cá nhân.Kiến thức về tiêm an toàn ảnh hưởng thế nào đến thực hành?
Điều dưỡng có kiến thức đạt chuẩn có khả năng thực hành tiêm an toàn cao hơn. Nghiên cứu cho thấy điều dưỡng được đào tạo trong năm qua có kiến thức tốt hơn gấp 10,3 lần so với nhóm không được đào tạo.Các yếu tố tổ chức quản lý ảnh hưởng ra sao đến tiêm an toàn?
Thiếu nhân lực, quá tải công việc, công tác kiểm tra giám sát chưa hiệu quả làm giảm mức độ tuân thủ quy trình tiêm an toàn. Ví dụ, 16,32% điều dưỡng cho biết quá tải công việc ảnh hưởng đến thực hành tiêm.Làm thế nào để cải thiện thực hành tiêm an toàn?
Cần tổ chức đào tạo định kỳ, cung cấp đầy đủ trang thiết bị, xây dựng quy trình phù hợp và tăng cường kiểm tra giám sát, áp dụng hình thức thưởng/phạt để nâng cao ý thức và kỹ năng của điều dưỡng.Tại sao cần chú trọng tiêm an toàn ở hệ Nhi?
Trẻ em thường phải tiêm và truyền tĩnh mạch để đảm bảo lượng thuốc chính xác, do đó nguy cơ tai biến và phơi nhiễm cao hơn. Việc đảm bảo tiêm an toàn giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn, sốc phản vệ và các biến chứng khác, góp phần nâng cao hiệu quả điều trị.
Kết luận
- Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt về tiêm an toàn tại 4 khoa lâm sàng hệ Nhi Bệnh viện Sản - Nhi Hưng Yên năm 2015 chỉ đạt 38,1%, thực hành tiêm và truyền an toàn lần lượt là 31,5% và 33,9%.
- Các yếu tố ảnh hưởng bao gồm đặc điểm nhân khẩu học, đào tạo tập huấn, tổ chức quản lý, trang thiết bị và đặc thù kỹ thuật tiêm truyền trên bệnh nhi.
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo, cung ứng trang thiết bị, xây dựng quy trình và tăng cường kiểm tra giám sát nhằm nâng cao thực hành tiêm an toàn.
- Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho bệnh viện và các cơ sở y tế khác trong việc cải thiện chất lượng chăm sóc và an toàn người bệnh.
- Các bước tiếp theo bao gồm triển khai các giải pháp đề xuất, đánh giá hiệu quả sau 12 tháng và mở rộng nghiên cứu sang các khoa khác.
Hành động ngay hôm nay: Ban lãnh đạo và điều dưỡng trưởng bệnh viện cần phối hợp triển khai các chương trình đào tạo và kiểm tra giám sát để nâng cao thực hành tiêm an toàn, góp phần bảo vệ sức khỏe người bệnh và nhân viên y tế.