Tổng quan nghiên cứu

Thức ăn đường phố là một phần không thể thiếu trong đời sống đô thị, phục vụ đa dạng đối tượng với tính tiện lợi và giá cả phải chăng. Tại quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, có khoảng 270 cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố với doanh thu trung bình 12 triệu đồng/tháng mỗi cơ sở. Tuy nhiên, thức ăn đường phố tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an toàn thực phẩm (ATTP), có thể dẫn đến ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm. Theo báo cáo của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Cần Thơ giai đoạn 2016-2020, toàn thành phố ghi nhận 01 vụ ngộ độc thực phẩm với 28 người bị ảnh hưởng, nguyên nhân chủ yếu do vi sinh vật. Tỷ lệ người chế biến đạt kiến thức đúng về ATTP tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố chỉ đạt khoảng 58,9%, trong khi thực hành đúng về ATTP đạt 66,3%. Nghiên cứu nhằm mục tiêu mô tả thực trạng kiến thức và thực hành về ATTP của người chế biến tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố quận Thốt Nốt năm 2022, đồng thời xác định các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành này. Thời gian nghiên cứu từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2022, tập trung tại địa bàn quận Thốt Nốt, nơi có dân số khoảng 155.360 người và tiềm năng phát triển công nghiệp, du lịch sinh thái. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng ATTP, giảm thiểu nguy cơ ngộ độc thực phẩm, góp phần phát triển kinh tế địa phương và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên các quy định pháp luật về an toàn thực phẩm như Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Nghị định số 155/2018/NĐ-CP và Nghị định số 115/2018/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP. Khung lý thuyết tập trung vào ba nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành ATTP của người chế biến:

  • Yếu tố đặc điểm cơ sở kinh doanh: số lượng người chế biến, thời gian kinh doanh, loại thực phẩm kinh doanh.
  • Yếu tố đặc điểm người chế biến: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số năm kinh nghiệm, tập huấn kiến thức ATTP.
  • Yếu tố công tác quản lý: tần suất tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm hành chính về ATTP.

Các khái niệm chính bao gồm kiến thức về lựa chọn thực phẩm, vệ sinh cá nhân, ngộ độc thực phẩm, chế biến và bảo quản thực phẩm an toàn, cùng với thực hành tương ứng trong các lĩnh vực này.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang với cỡ mẫu toàn bộ 270 người chế biến tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố trên địa bàn quận Thốt Nốt. Đối tượng nghiên cứu là người chế biến chính, có thời gian làm việc từ 6 tháng trở lên, tuổi từ 18 đến 60, đồng ý tham gia nghiên cứu. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu câu hỏi đánh giá kiến thức và quan sát thực hành về ATTP. Các biến số kiến thức và thực hành được đánh giá theo tiêu chuẩn đạt từ 80% trở lên trên tổng số điểm. Phân tích dữ liệu sử dụng phần mềm SPSS 20.0, áp dụng thống kê mô tả, kiểm định Khi bình phương (χ2) và phân tích đa biến để xác định các yếu tố liên quan với mức ý nghĩa p < 0,05. Quá trình thu thập dữ liệu được thực hiện từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2022, đảm bảo tuân thủ các quy định đạo đức nghiên cứu và bảo mật thông tin cá nhân.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Kiến thức về an toàn thực phẩm: Tỷ lệ người chế biến đạt kiến thức đúng về ATTP là 58,9%. Trong đó, kiến thức về vệ sinh dụng cụ đạt cao nhất với 83,0%, còn kiến thức về ngộ độc thực phẩm thấp nhất với 55,9%. Kiến thức về lựa chọn thực phẩm đạt 72,2%, vệ sinh cá nhân 75,6%, và chế biến, bảo quản thực phẩm 68,1%.

  2. Thực hành về an toàn thực phẩm: Tỷ lệ người chế biến có thực hành chung đạt 66,3%. Thực hành vệ sinh cá nhân đạt cao nhất với 88,1%, thực hành quản lý chất thải và vệ sinh bếp đạt 84,1%, thực hành trong chế biến, bảo quản thực phẩm đạt 77,0%, thực hành lựa chọn thực phẩm đạt 69,3%, và thực hành đủ điều kiện tham gia chế biến thực phẩm đạt 60,7%.

  3. Yếu tố liên quan đến kiến thức: Người chế biến có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên có khả năng đạt kiến thức về ATTP cao gấp 9,2 lần so với người có trình độ thấp hơn (p<0,001). Thâm niên kinh doanh từ 5 năm trở lên cũng làm tăng khả năng đạt kiến thức đúng gấp 2,1 lần (p<0,05). Cơ sở có một người chế biến có khả năng đạt kiến thức cao hơn so với cơ sở có nhiều người (OR=1,9; p<0,05). Tần suất tuyên truyền và kiểm tra, giám sát 2 lần/năm làm tăng đáng kể kiến thức đạt được (OR lần lượt 6,1 và 4,3; p<0,05).

  4. Yếu tố liên quan đến thực hành: Người chế biến có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên có khả năng thực hành đúng về ATTP cao gấp 2,6 lần (p<0,05). Thâm niên kinh doanh dưới 5 năm làm tăng khả năng thực hành đúng gấp 2,5 lần (p<0,001). Người được kiểm tra, giám sát 1 lần/năm có thực hành đúng cao gấp 2,6 lần so với người được kiểm tra 2 lần/năm (p<0,05). Người không bị xử phạt vi phạm hành chính có thực hành đúng cao gấp 1,9 lần (p<0,05). Kiến thức đạt về ATTP cũng có liên quan tích cực đến thực hành đạt (OR=1,7; p<0,05).

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy kiến thức và thực hành về ATTP của người chế biến tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố quận Thốt Nốt còn ở mức trung bình, tương đồng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế. Trình độ học vấn và thâm niên kinh doanh là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến kiến thức và thực hành, phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Việc tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, giám sát cũng góp phần nâng cao nhận thức và hành vi của người chế biến. Tuy nhiên, thực hành chưa đạt tối ưu ở một số khía cạnh như đủ điều kiện tham gia chế biến và lựa chọn thực phẩm, cho thấy cần có các biện pháp hỗ trợ cụ thể. Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ đạt kiến thức và thực hành theo từng nhóm tiêu chí, cùng bảng phân tích đa biến minh họa các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường đào tạo và tập huấn kiến thức ATTP: Tổ chức các khóa đào tạo định kỳ, đặc biệt tập trung vào người chế biến có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở xuống và người mới vào nghề (dưới 5 năm kinh nghiệm). Mục tiêu nâng tỷ lệ kiến thức đạt lên trên 80% trong vòng 12 tháng. Chủ thể thực hiện: Trung tâm Y tế quận phối hợp với các cơ quan chức năng.

  2. Nâng cao công tác kiểm tra, giám sát: Tăng tần suất kiểm tra, giám sát từ 1 lần/năm lên ít nhất 2 lần/năm tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm về ATTP. Mục tiêu giảm tỷ lệ vi phạm xuống dưới 15% trong 1 năm. Chủ thể thực hiện: Ban quản lý an toàn thực phẩm địa phương.

  3. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng tại cơ sở: Hướng dẫn người chế biến thực hiện đầy đủ các quy định về khám sức khỏe định kỳ, lưu giữ hóa đơn, sổ ký giao nhận nguyên liệu, và thực hành vệ sinh cá nhân nghiêm ngặt. Mục tiêu đạt 90% cơ sở tuân thủ trong 18 tháng. Chủ thể thực hiện: Chủ cơ sở kinh doanh phối hợp với cơ quan y tế.

  4. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng: Sử dụng đa dạng các kênh truyền thông như báo, tờ rơi, truyền hình, phát thanh để nâng cao nhận thức về ATTP cho người chế biến và người tiêu dùng. Mục tiêu tăng tỷ lệ tiếp cận thông tin trên 80% trong 1 năm. Chủ thể thực hiện: UBND quận, Trung tâm Y tế, các tổ chức xã hội.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cán bộ quản lý an toàn thực phẩm: Nghiên cứu cung cấp dữ liệu thực tiễn và các yếu tố ảnh hưởng giúp xây dựng chính sách, kế hoạch kiểm tra, giám sát hiệu quả hơn.

  2. Người kinh doanh và chế biến thức ăn đường phố: Hiểu rõ kiến thức và thực hành cần thiết để nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ sức khỏe khách hàng và duy trì hoạt động kinh doanh bền vững.

  3. Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng: Tài liệu tham khảo quý giá về phương pháp nghiên cứu, phân tích dữ liệu và các yếu tố ảnh hưởng đến ATTP trong môi trường kinh doanh nhỏ lẻ.

  4. Cơ quan đào tạo và tổ chức tập huấn: Căn cứ để thiết kế chương trình đào tạo, tập huấn phù hợp với đặc điểm người học và thực trạng địa phương.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao kiến thức về ngộ độc thực phẩm của người chế biến thấp hơn các lĩnh vực khác?
    Nguyên nhân do kiến thức về triệu chứng, nguyên nhân và cách xử lý ngộ độc thực phẩm phức tạp hơn, chưa được tập huấn đầy đủ. Ví dụ, chỉ 55,9% người chế biến đạt kiến thức đúng về ngộ độc thực phẩm.

  2. Thâm niên kinh doanh ảnh hưởng thế nào đến thực hành ATTP?
    Người có thâm niên dưới 5 năm có thực hành đúng cao gấp 2,5 lần so với người trên 5 năm, có thể do người mới thường được đào tạo bài bản hơn hoặc tuân thủ quy định chặt chẽ hơn.

  3. Tần suất kiểm tra, giám sát ảnh hưởng ra sao đến kiến thức và thực hành?
    Kiểm tra, giám sát 2 lần/năm giúp tăng khả năng đạt kiến thức lên 4,3 lần và thực hành lên 2,6 lần so với 1 lần/năm, nhấn mạnh vai trò của công tác quản lý nhà nước.

  4. Làm thế nào để nâng cao thực hành vệ sinh cá nhân của người chế biến?
    Tăng cường tập huấn, cung cấp trang thiết bị bảo hộ lao động và giám sát thường xuyên. Thực hành vệ sinh cá nhân đạt 88,1% nhưng vẫn còn khoảng 12% chưa tuân thủ đầy đủ.

  5. Có mối liên hệ nào giữa kiến thức và thực hành ATTP không?
    Có, người đạt kiến thức đúng có khả năng thực hành đúng cao gấp 1,7 lần so với người không đạt, cho thấy việc nâng cao kiến thức là nền tảng để cải thiện thực hành.

Kết luận

  • Tỷ lệ người chế biến đạt kiến thức và thực hành đúng về ATTP tại quận Thốt Nốt lần lượt là 58,9% và 66,3%, còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
  • Trình độ học vấn, thâm niên kinh doanh, tần suất tuyên truyền và kiểm tra, giám sát là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến kiến thức và thực hành.
  • Người chế biến có kiến thức tốt có khả năng thực hành đúng cao hơn, khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa nhận thức và hành vi.
  • Cần triển khai các giải pháp đào tạo, kiểm tra, giám sát và tuyên truyền đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng ATTP tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố.
  • Các bước tiếp theo bao gồm xây dựng kế hoạch đào tạo chi tiết, tăng cường nguồn lực kiểm tra và phát triển hệ thống quản lý chất lượng tại cơ sở. Đề nghị các cơ quan chức năng và chủ cơ sở phối hợp thực hiện để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế địa phương bền vững.

Hãy hành động ngay hôm nay để nâng cao an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe cộng đồng!