Tổng quan nghiên cứu

Thức ăn đường phố là một phần không thể thiếu trong đời sống đô thị, phục vụ đa dạng đối tượng với tính tiện lợi và giá cả phải chăng. Tại quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, năm 2022 có khoảng 270 cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố với doanh thu trung bình 12 triệu đồng/tháng mỗi cơ sở. Tuy nhiên, thức ăn đường phố tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an toàn thực phẩm (ATTP), có thể dẫn đến ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm. Giai đoạn 2016-2020, cả nước ghi nhận 584 vụ ngộ độc thực phẩm với hơn 16.000 người bị ảnh hưởng, trong đó quận Thốt Nốt có 1 vụ với 28 người bị ngộ độc. Tỷ lệ người chế biến đạt kiến thức và thực hành đúng về ATTP tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố còn thấp, ví dụ tại Hà Nội chỉ đạt 39,4%. Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức và thực hành về ATTP của người chế biến tại quận Thốt Nốt, đồng thời xác định các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành này. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2022, với toàn bộ 270 cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố trên địa bàn quận. Kết quả sẽ cung cấp cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng ATTP, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế địa phương.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên các quy định pháp luật về ATTP như Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Nghị định số 155/2018/NĐ-CP và Nghị định số 115/2018/NĐ-CP, cùng các hướng dẫn của Bộ Y tế về kiểm thực ba bước và lưu mẫu thức ăn. Khung lý thuyết tập trung vào ba nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành ATTP của người chế biến:

  • Yếu tố đặc điểm cơ sở kinh doanh: số lượng người chế biến, thời gian kinh doanh, loại thực phẩm kinh doanh.
  • Yếu tố đặc điểm người chế biến: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, thâm niên kinh doanh, tập huấn kiến thức ATTP.
  • Yếu tố công tác quản lý: tần suất tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm hành chính.

Các khái niệm chính bao gồm kiến thức về lựa chọn thực phẩm, vệ sinh cá nhân, ngộ độc thực phẩm, yêu cầu về khu vực chế biến và trang thiết bị, thực hành an toàn trong chế biến và bảo quản thực phẩm.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang với cỡ mẫu toàn bộ 270 người chế biến tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố trên địa bàn quận Thốt Nốt. Đối tượng là người chế biến chính, có thời gian làm việc từ 6 tháng trở lên, tuổi từ 18 đến 60. Phương pháp chọn mẫu toàn bộ nhằm đảm bảo tính đại diện và độ tin cậy cao.

Dữ liệu được thu thập bằng phiếu phỏng vấn đánh giá kiến thức và bảng quan sát thực hành về ATTP. Cán bộ điều tra trực tiếp phỏng vấn và quan sát tại cơ sở kinh doanh. Dữ liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Phân tích mô tả sử dụng tỷ lệ phần trăm, kiểm định Chi bình phương để xác định mối liên quan giữa các yếu tố với kiến thức và thực hành ATTP. Phân tích đa biến được áp dụng để loại trừ yếu tố gây nhiễu, với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Kiến thức về ATTP: Tỷ lệ người chế biến đạt kiến thức đúng về ATTP là 58,9%. Trong đó, kiến thức về vệ sinh dụng cụ đạt cao nhất 83,0%, kiến thức về ngộ độc thực phẩm thấp nhất 55,9%. Kiến thức về lựa chọn thực phẩm đạt 72,2%, vệ sinh cá nhân 75,6%, và chế biến bảo quản thực phẩm 68,1%.

  2. Thực hành về ATTP: Tỷ lệ người chế biến có thực hành chung đạt 66,3%. Thực hành vệ sinh cá nhân đạt cao nhất 88,1%, quản lý chất thải và vệ sinh bếp 84,1%, thực hành trong chế biến và bảo quản thực phẩm 77,0%, lựa chọn thực phẩm 69,3%, và đủ điều kiện tham gia chế biến 60,7%.

  3. Yếu tố liên quan đến kiến thức: Người chế biến có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên có khả năng đạt kiến thức đúng về ATTP cao gấp 9,2 lần so với người có trình độ thấp hơn (p<0,001). Thâm niên kinh doanh từ 5 năm trở lên cũng tăng khả năng đạt kiến thức đúng gấp 2,1 lần (p<0,05). Cơ sở có 1 người chế biến có kiến thức tốt hơn so với cơ sở có ≥ 2 người (p<0,05). Tần suất tuyên truyền và kiểm tra, giám sát 2 lần/năm làm tăng khả năng đạt kiến thức đúng lần lượt 6,1 và 4,3 lần (p<0,05).

  4. Yếu tố liên quan đến thực hành: Người chế biến có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên có thực hành đúng về ATTP cao gấp 2,6 lần (p<0,05). Thâm niên kinh doanh dưới 5 năm tăng khả năng thực hành đúng gấp 2,5 lần (p<0,001). Người được kiểm tra, giám sát 1 lần/năm có thực hành đúng cao gấp 2,6 lần so với 2 lần/năm (p<0,05). Người không bị xử phạt vi phạm hành chính có thực hành đúng cao gấp 1,9 lần (p<0,05).

  5. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành: Người có kiến thức đúng về ATTP có khả năng thực hành đúng cao gấp 1,7 lần so với người không đạt kiến thức (p<0,05).

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy kiến thức và thực hành về ATTP của người chế biến tại quận Thốt Nốt còn ở mức trung bình, tương đồng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế. Trình độ học vấn và thâm niên kinh doanh là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến kiến thức và thực hành, phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Tần suất tuyên truyền và kiểm tra, giám sát cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và hành vi của người chế biến.

Việc cơ sở có ít người chế biến hơn có kiến thức tốt hơn có thể do sự tập trung và quản lý dễ dàng hơn. Thực hành đạt cao nhất ở vệ sinh cá nhân và quản lý chất thải cho thấy người chế biến đã chú trọng các biện pháp phòng ngừa cơ bản. Tuy nhiên, thực hành đủ điều kiện tham gia chế biến còn thấp, phản ánh sự cần thiết tăng cường khám sức khỏe và tập huấn.

Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ đạt kiến thức và thực hành theo từng nhóm tiêu chí, bảng phân tích mối liên quan giữa các yếu tố với kết quả ATTP để minh họa rõ ràng hơn.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường đào tạo và tập huấn kiến thức ATTP: Tổ chức các khóa đào tạo định kỳ, đặc biệt tập trung vào người chế biến có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở xuống và thâm niên kinh doanh dưới 5 năm. Mục tiêu nâng tỷ lệ kiến thức đạt lên trên 80% trong vòng 1 năm.

  2. Nâng cao công tác kiểm tra, giám sát: Cơ quan quản lý địa phương cần tăng tần suất kiểm tra, giám sát ít nhất 2 lần/năm, đồng thời áp dụng biện pháp xử lý nghiêm minh đối với vi phạm để nâng cao ý thức tuân thủ.

  3. Thực hiện khám sức khỏe định kỳ bắt buộc: Yêu cầu người chế biến phải có giấy khám sức khỏe còn hiệu lực, tổ chức khám sức khỏe định kỳ hàng năm nhằm đảm bảo sức khỏe người chế biến, giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh truyền qua thực phẩm.

  4. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng tại cơ sở: Khuyến khích các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố áp dụng quy trình kiểm soát ATTP, bao gồm lưu giữ hóa đơn, sổ ký giao nhận nguyên liệu, phân chia dụng cụ chế biến riêng biệt, bảo quản thực phẩm đúng cách.

  5. Tăng cường truyền thông và nâng cao nhận thức cộng đồng: Sử dụng đa dạng kênh truyền thông như báo, tờ rơi, truyền hình, phát thanh để phổ biến kiến thức ATTP đến người chế biến và người tiêu dùng, tạo sự đồng thuận và giám sát xã hội.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cơ quan quản lý nhà nước về ATTP: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng chính sách, kế hoạch kiểm tra, giám sát và đào tạo phù hợp với đặc điểm địa phương.

  2. Người kinh doanh và chế biến thức ăn đường phố: Nắm bắt kiến thức và thực hành đúng về ATTP, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ sức khỏe khách hàng và phát triển kinh doanh bền vững.

  3. Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, kết quả và phân tích để phát triển các đề tài nghiên cứu tiếp theo về ATTP và sức khỏe cộng đồng.

  4. Tổ chức phi chính phủ và các đơn vị truyền thông: Dựa trên dữ liệu thực tế để thiết kế các chương trình truyền thông, tập huấn nâng cao nhận thức về ATTP cho cộng đồng và người kinh doanh.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao kiến thức về ngộ độc thực phẩm của người chế biến thấp hơn các lĩnh vực khác?
    Nguyên nhân do kiến thức về nguyên nhân, biểu hiện và xử lý ngộ độc thực phẩm phức tạp hơn, chưa được tập huấn đầy đủ. Ví dụ, chỉ 55,9% người chế biến đạt kiến thức đúng về ngộ độc thực phẩm.

  2. Thâm niên kinh doanh ảnh hưởng thế nào đến thực hành ATTP?
    Người có thâm niên dưới 5 năm có thực hành đúng cao gấp 2,5 lần so với người trên 5 năm, có thể do người mới thường được đào tạo và giám sát chặt chẽ hơn.

  3. Tần suất kiểm tra, giám sát ảnh hưởng ra sao đến kiến thức và thực hành?
    Kiểm tra, giám sát 2 lần/năm giúp tăng khả năng đạt kiến thức đúng gấp 4,3 lần và thực hành đúng gấp 2,6 lần so với 1 lần/năm, nhấn mạnh vai trò của công tác quản lý.

  4. Làm thế nào để nâng cao thực hành vệ sinh cá nhân?
    Đào tạo chuyên sâu, cung cấp đầy đủ trang thiết bị bảo hộ và giám sát thường xuyên giúp duy trì thực hành vệ sinh cá nhân đạt tỷ lệ cao như 88,1% trong nghiên cứu.

  5. Có mối liên hệ nào giữa kiến thức và thực hành không?
    Có, người có kiến thức đúng về ATTP có khả năng thực hành đúng cao gấp 1,7 lần, chứng tỏ việc nâng cao kiến thức là nền tảng để cải thiện thực hành.

Kết luận

  • Tỷ lệ người chế biến đạt kiến thức và thực hành đúng về ATTP tại quận Thốt Nốt lần lượt là 58,9% và 66,3%, phản ánh mức độ trung bình cần cải thiện.
  • Trình độ học vấn, thâm niên kinh doanh, tần suất tuyên truyền và kiểm tra, giám sát là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến kiến thức và thực hành ATTP.
  • Người chế biến có kiến thức đúng có khả năng thực hành đúng cao hơn, khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa nhận thức và hành vi.
  • Cần tăng cường đào tạo, kiểm tra, giám sát và truyền thông để nâng cao chất lượng ATTP tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố.
  • Các bước tiếp theo bao gồm triển khai các giải pháp đề xuất, theo dõi đánh giá hiệu quả và mở rộng nghiên cứu sang các địa bàn khác nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm toàn diện.

Hành động ngay hôm nay để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế địa phương bền vững!