Tổng quan nghiên cứu
Công tác giáo dục sức khỏe (GDSK) đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người bệnh, góp phần cải thiện hiệu quả điều trị và chất lượng dịch vụ y tế. Tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương (BVLKTƯ), nơi chuyên chăm sóc người cao tuổi với các bệnh mạn tính như đái tháo đường, tăng huyết áp, suy tim, COPD, Parkinson, việc thực hiện GDSK cho người bệnh nội trú càng trở nên cấp thiết. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2020, với 213 bệnh nhân nội trú tham gia phỏng vấn, kết hợp quan sát thực tế và phỏng vấn sâu cán bộ y tế nhằm đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác GDSK của nhân viên y tế (NVYT).
Kết quả cho thấy, mặc dù đa số người bệnh được NVYT truyền thông giáo dục sức khỏe, vẫn tồn tại nhiều hạn chế như tỷ lệ phản hồi thấp về nội dung và quy trình tổ chức GDSK nhóm, thiếu phòng GDSK riêng, thiết bị hỗ trợ truyền thông còn hạn chế, và thiếu tài liệu hướng dẫn. Nhân lực thực hiện GDSK chủ yếu là điều dưỡng, nhưng còn thiếu về số lượng và kỹ năng, đồng thời thiếu cơ chế khen thưởng và kinh phí đầu tư cho hoạt động này. Nghiên cứu nhằm cung cấp cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác GDSK tại BVLKTƯ, góp phần cải thiện chất lượng chăm sóc người cao tuổi.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình sau:
- Lý thuyết thay đổi hành vi sức khỏe: GDSK là quá trình tác động có mục đích nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh để phát triển hành vi lành mạnh, nâng cao sức khỏe (WHO, 1977).
- Mô hình truyền thông giáo dục sức khỏe: Quá trình truyền thông bao gồm các thành phần như người gửi, mã hóa, thông điệp, phương tiện truyền thông, người nhận, giải mã, phản hồi và nhiễu, nhằm tạo sự hiểu biết và thay đổi hành vi (Ottawa Charter, 1986).
- 6 cấu phần của hệ thống y tế theo WHO (2007): Cung cấp dịch vụ, nhân lực y tế, hệ thống thông tin y tế, trang thiết bị, tài chính, lãnh đạo quản lý, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác GDSK.
Các khái niệm chính bao gồm: giáo dục sức khỏe, truyền thông giáo dục sức khỏe, hành vi sức khỏe, nhân viên y tế, người bệnh nội trú, và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác GDSK.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp định lượng và định tính, thực hiện tại BVLKTƯ từ tháng 3/2019 đến tháng 8/2020. Cỡ mẫu phỏng vấn bệnh nhân nội trú là 213 người, được chọn ngẫu nhiên từ 7 khoa lâm sàng, không bao gồm các khoa cấp cứu, hồi sức tích cực và sức khỏe tâm thần do đặc thù bệnh nhân. Ngoài ra, 12 buổi GDSK nhóm được quan sát trực tiếp, cùng với 3 cuộc phỏng vấn sâu và 2 cuộc thảo luận nhóm với cán bộ y tế.
Nguồn dữ liệu gồm: phỏng vấn bệnh nhân, quan sát buổi GDSK nhóm, bộ số liệu thứ cấp về kế hoạch và báo cáo công tác GDSK năm 2019 và 6 tháng đầu năm 2020, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với NVYT. Phân tích số liệu định lượng sử dụng phần mềm SPSS 20.0 với các thống kê mô tả và phân tích các yếu tố ảnh hưởng. Dữ liệu định tính được xử lý bằng phương pháp gỡ băng và phân tích nội dung.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
- Thực trạng GDSK cho người bệnh nội trú: Trong 213 bệnh nhân, 17,4% không được NVYT hướng dẫn thay đổi lối sống lành mạnh; 14,1% không được hướng dẫn cách phòng bệnh; 10,8% không được hướng dẫn biện pháp phòng trượt ngã; 9,9% không được hướng dẫn vệ sinh cá nhân. Tỷ lệ không được tư vấn sử dụng thuốc an toàn thấp nhất, chỉ 0,9%.
- Cảm nhận của người bệnh về chất lượng GDSK: Khoảng 63,5% bệnh nhân cảm nhận rõ ràng về hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn; 57,6% cảm nhận rõ về hướng dẫn nghỉ ngơi và tập phục hồi chức năng; tuy nhiên, tỷ lệ cảm nhận rõ về hướng dẫn phòng bệnh và thay đổi lối sống chỉ đạt khoảng 60%.
- Thực hiện quy trình GDSK nhóm: Tỷ lệ thực hiện kế hoạch GDSK nhóm tại các khoa lâm sàng chỉ đạt 24,1% trong 6 tháng năm 2019 và giảm còn 16,6% trong 6 tháng đầu năm 2020, ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Các khoa Thần kinh Alzheimer và Cấp cứu đột quỵ có tỷ lệ thực hiện cao nhất, lần lượt 58,3% và 41,6%.
- Cơ sở vật chất và trang thiết bị hỗ trợ GDSK: 100% các khoa không có phòng GDSK riêng, không có loa đài hỗ trợ; 41,7% khoa không có máy chiếu; 16,7% khoa không chuẩn bị tài liệu bài giảng; 58,3% khoa thiếu băng hình, tờ rơi, tranh ảnh phục vụ GDSK.
- Yếu tố ảnh hưởng đến công tác GDSK: Nhân lực thiếu và yếu về kỹ năng, chủ yếu do điều dưỡng đảm nhận; áp lực công việc, thiếu thời gian; thiếu cơ chế khen thưởng, động viên; kinh phí đầu tư cho GDSK hạn chế; lãnh đạo bệnh viện chưa có quy định rõ ràng cho bác sĩ tham gia GDSK; thiếu đào tạo thường xuyên cho NVYT, đặc biệt là bác sĩ.
Thảo luận kết quả
Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác GDSK tại BVLKTƯ còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong tổ chức GDSK nhóm và cung cấp tài liệu, trang thiết bị hỗ trợ. Tỷ lệ bệnh nhân không được tư vấn các nội dung quan trọng như thay đổi lối sống và phòng bệnh còn cao, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và phòng ngừa biến chứng. So sánh với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, mức độ thực hiện GDSK tại BVLKTƯ tương đối thấp so với các bệnh viện khác, phản ánh sự thiếu đầu tư và quan tâm đúng mức.
Việc thiếu phòng GDSK riêng và thiết bị hỗ trợ làm giảm chất lượng truyền thông, gây khó khăn cho NVYT trong việc thu hút và giữ sự chú ý của người bệnh. Áp lực công việc và thiếu kỹ năng GDSK của NVYT, đặc biệt là điều dưỡng, cũng là rào cản lớn. Các nghiên cứu tương tự tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng nhân lực y tế thường thiếu thời gian và kỹ năng để thực hiện GDSK hiệu quả.
Ngoài ra, thiếu cơ chế khen thưởng và kinh phí đầu tư làm giảm động lực của NVYT trong việc thực hiện công tác này. Lãnh đạo bệnh viện cần có chính sách rõ ràng hơn, đặc biệt khuyến khích bác sĩ tham gia GDSK, đồng thời tăng cường đào tạo và giám sát. Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ tỷ lệ thực hiện GDSK theo nội dung và biểu đồ so sánh tỷ lệ thực hiện GDSK nhóm giữa các khoa, giúp minh họa rõ ràng các điểm mạnh và hạn chế.
Đề xuất và khuyến nghị
Rà soát và hoàn thiện quy trình GDSK: Cập nhật, bổ sung các bước còn thiếu trong quy trình GDSK nhóm và cá nhân, đặc biệt chú trọng phần mở đầu và kết thúc buổi GDSK nhằm tăng sự hấp dẫn và ghi nhớ nội dung. Thời gian thực hiện: 6 tháng; Chủ thể: Ban Giám đốc Bệnh viện phối hợp phòng Điều dưỡng và các khoa lâm sàng.
Tăng cường đào tạo và nâng cao kỹ năng GDSK cho NVYT: Tổ chức các khóa đào tạo định kỳ, cập nhật kiến thức và kỹ năng truyền thông, đặc biệt mở rộng cho bác sĩ và kỹ thuật viên. Thời gian: hàng năm; Chủ thể: Phòng Đào tạo và Phòng Điều dưỡng.
Đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị hỗ trợ GDSK: Xây dựng phòng GDSK riêng tại các khoa lâm sàng, trang bị máy chiếu, loa đài, tài liệu, tờ rơi, tranh ảnh phục vụ truyền thông. Thời gian: 12 tháng; Chủ thể: Ban Quản lý Bệnh viện và phòng Kế hoạch Tổng hợp.
Xây dựng cơ chế khen thưởng và động viên NVYT thực hiện tốt công tác GDSK: Thiết lập tiêu chí đánh giá, khen thưởng định kỳ nhằm khuyến khích NVYT tích cực tham gia GDSK. Thời gian: 6 tháng; Chủ thể: Ban Giám đốc Bệnh viện và phòng Quản lý chất lượng.
Tăng cường giám sát và đánh giá công tác GDSK: Thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên, kết hợp khảo sát hài lòng người bệnh để điều chỉnh kịp thời. Thời gian: liên tục; Chủ thể: Phòng Quản lý chất lượng và phòng Điều dưỡng.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Lãnh đạo bệnh viện và các phòng ban chức năng: Giúp hiểu rõ thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác GDSK, từ đó xây dựng chính sách, kế hoạch phát triển phù hợp.
Nhân viên y tế, đặc biệt điều dưỡng và bác sĩ: Nâng cao nhận thức về vai trò và kỹ năng thực hiện GDSK, cải thiện chất lượng tư vấn cho người bệnh.
Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng, quản lý bệnh viện: Cung cấp dữ liệu thực tiễn và phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng - định tính trong lĩnh vực quản lý bệnh viện và truyền thông y tế.
Cơ quan quản lý y tế và các tổ chức y tế: Tham khảo để xây dựng các chương trình đào tạo, chính sách hỗ trợ và đầu tư phát triển công tác GDSK trong bệnh viện, đặc biệt với đối tượng người cao tuổi.
Câu hỏi thường gặp
Công tác giáo dục sức khỏe có vai trò gì trong bệnh viện?
GDSK giúp người bệnh nâng cao kiến thức, thay đổi hành vi, tuân thủ điều trị, góp phần nâng cao hiệu quả điều trị và chất lượng chăm sóc. Ví dụ, hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn giúp giảm sai sót trong điều trị.Những khó khăn chính trong thực hiện GDSK tại BVLKTƯ là gì?
Thiếu phòng GDSK riêng, trang thiết bị hỗ trợ hạn chế, nhân lực thiếu kỹ năng và thời gian, thiếu cơ chế khen thưởng và kinh phí đầu tư. Điều này làm giảm hiệu quả truyền thông và sự hài lòng của người bệnh.Ai là người thực hiện công tác GDSK trong bệnh viện?
Chủ yếu là điều dưỡng, bác sĩ và kỹ thuật viên. Điều dưỡng thường đảm nhận chính, nhưng cần tăng cường vai trò của bác sĩ để nâng cao hiệu quả GDSK.Làm thế nào để nâng cao chất lượng GDSK cho người bệnh nội trú?
Cần đào tạo kỹ năng cho NVYT, đầu tư trang thiết bị, xây dựng quy trình chuẩn, tăng cường giám sát và khen thưởng động viên NVYT thực hiện tốt công tác này.Tại sao GDSK nhóm lại quan trọng và hiện đang gặp khó khăn?
GDSK nhóm giúp truyền tải thông tin hiệu quả cho nhiều người cùng lúc, tạo sự tương tác. Tuy nhiên, tại BVLKTƯ, tỷ lệ tổ chức GDSK nhóm thấp do thiếu phòng, thiết bị và kế hoạch tổ chức chưa bài bản.
Kết luận
- Công tác giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương còn nhiều hạn chế về nội dung, quy trình và cơ sở vật chất hỗ trợ.
- Tỷ lệ người bệnh không được tư vấn các nội dung quan trọng như thay đổi lối sống và phòng bệnh còn cao, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.
- Nhân lực thực hiện GDSK chủ yếu là điều dưỡng, còn thiếu kỹ năng và thời gian, thiếu cơ chế khen thưởng và kinh phí đầu tư.
- Cần rà soát quy trình, tăng cường đào tạo, đầu tư trang thiết bị và xây dựng cơ chế động viên để nâng cao chất lượng công tác GDSK.
- Nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho lãnh đạo bệnh viện và các bên liên quan trong việc cải thiện công tác GDSK, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi.
Hành động tiếp theo: Ban Giám đốc Bệnh viện cần triển khai các giải pháp đề xuất, tổ chức đào tạo và đầu tư trang thiết bị trong vòng 12 tháng tới để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục sức khỏe.