Tổng quan nghiên cứu
An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, đặc biệt đối với các cơ sở sản xuất thực phẩm truyền thống như cơ sở sản xuất bún tại Tây Ninh. Theo báo cáo, Tây Ninh có khoảng 172 cơ sở sản xuất bún, trong đó nhiều cơ sở chưa đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, gây ra nguy cơ ngộ độc thực phẩm và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng. Tháng 5/2013, đoàn kiểm tra liên ngành tỉnh Tây Ninh phát hiện 03 cơ sở sản xuất bún sử dụng các chất cấm như Tinopal, hàn the và formol – những hóa chất độc hại có thể gây ung thư và các bệnh lý nghiêm trọng khác.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) về an toàn thực phẩm của chủ cơ sở sản xuất bún, đồng thời khảo sát công tác quản lý nhà nước của lực lượng Quản lý thị trường (QLTT) tại Tây Ninh. Nghiên cứu được thực hiện trong 04 tháng, từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2015, trên toàn bộ địa bàn tỉnh Tây Ninh với 152 cơ sở tham gia khảo sát. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững ngành sản xuất bún tại địa phương.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Luận văn dựa trên các lý thuyết và mô hình sau:
- Lý thuyết KAP (Knowledge – Attitude – Practice): Đánh giá mức độ hiểu biết, thái độ và thực hành của người sản xuất về an toàn thực phẩm, từ đó xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Luật An toàn thực phẩm năm 2010 (Luật số 55/2010/QH12): Cung cấp khung pháp lý về quản lý an toàn thực phẩm, trách nhiệm của các cơ quan quản lý và các quy định về sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
- Mô hình quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm: Phân tích vai trò của các cơ quan như Bộ Y tế, Bộ Công Thương và lực lượng Quản lý thị trường trong việc kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về ATTP.
- Khái niệm về an toàn thực phẩm, ngộ độc thực phẩm, ô nhiễm thực phẩm và các điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm: Giúp xác định các tiêu chí đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp.
- Nguồn dữ liệu: Bao gồm hai nhóm đối tượng chính: 44 cán bộ, công chức Quản lý thị trường trực tiếp quản lý các cơ sở sản xuất bún và 152 chủ cơ sở sản xuất bún trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
- Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu phi xác suất theo chủ đích (Purposive sampling). Toàn bộ cán bộ QLTT của 10 đội được phỏng vấn; chủ cơ sở được chọn từ danh sách quản lý với tỷ lệ hợp tác 88,37%.
- Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng phiếu điều tra được thiết kế dựa trên tiêu chuẩn của Bộ Y tế và Bộ Công Thương, gồm các phần: thông tin chung, kiến thức, thái độ và thực hành về ATTP.
- Phương pháp phân tích: Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý số liệu, phân tích thống kê mô tả, đánh giá điểm KAP và mối liên hệ giữa các biến số.
- Timeline nghiên cứu: Thực hiện trong 04 tháng (03/2015 – 07/2015), phối hợp với cán bộ y tế xã và tác giả trực tiếp phỏng vấn, thu thập dữ liệu.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Thực trạng quản lý ATTP của lực lượng Quản lý thị trường:
- 100% cán bộ QLTT kiêm nhiệm công tác quản lý ATTP, không có cán bộ chuyên trách.
- 68,2% cán bộ thiếu về số lượng, 100% thiếu đào tạo chuyên sâu về ATTP.
- 100% đội QLTT chưa tổ chức kiểm tra các cơ sở sản xuất bún trong năm 2014 do chưa có chỉ đạo cấp trên.
- 82,2% cơ sở có giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP, 17,8% không có giấy.
- Các nguyên nhân chính khiến công tác quản lý chưa tốt gồm: lồng ghép nhiệm vụ, thiếu nhân lực, thiếu trang thiết bị, chế độ chính sách chưa phù hợp, và thiếu sự phối hợp liên ngành.
Kiến thức về ATTP của chủ cơ sở sản xuất bún:
- 100% chủ cơ sở nhận biết bún là thực phẩm và hiểu thực phẩm an toàn là không độc hại.
- Tỷ lệ trả lời đúng các câu hỏi về kiến thức ATTP dao động từ 49,3% đến 100%, trong đó câu hỏi về rủi ro ngộ độc thực phẩm chỉ có 49,3% trả lời đúng.
- Điểm kiến thức trung bình đạt trên 60% tiêu chuẩn, với 30,9% đạt điểm tối đa 21/21.
Thái độ và thực hành về ATTP:
- Chủ cơ sở có thái độ tích cực với việc tuân thủ quy định ATTP, tuy nhiên thực hành vệ sinh còn nhiều hạn chế.
- 56,6% cơ sở trang bị dụng cụ bảo đảm vệ sinh, 43,4% không có.
- 80,3% công nhân làm việc không ổn định, ảnh hưởng đến việc duy trì thực hành vệ sinh liên tục.
- Không có cơ sở nào được kiểm tra ATTP trong năm 2014, làm giảm hiệu quả giám sát và nâng cao ý thức tuân thủ.
Mối liên hệ giữa các biến số và điểm KAP:
- Trình độ học vấn, tuổi tác và giấy chứng nhận ATTP có ảnh hưởng tích cực đến điểm KAP.
- Sản lượng sản xuất và giới tính không có ảnh hưởng đáng kể đến điểm KAP.
- Các cơ sở có chủ cơ sở tham gia sản xuất trực tiếp có điểm KAP cao hơn.
Thảo luận kết quả
Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác quản lý nhà nước về ATTP tại Tây Ninh còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc thiếu cán bộ chuyên trách và chưa có hoạt động kiểm tra định kỳ đối với các cơ sở sản xuất bún. Điều này tương đồng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, cho thấy việc kiêm nhiệm và thiếu đào tạo chuyên sâu là nguyên nhân phổ biến dẫn đến hiệu quả quản lý thấp.
Kiến thức về ATTP của chủ cơ sở tương đối tốt nhưng vẫn còn những điểm yếu, đặc biệt là nhận thức về rủi ro ngộ độc thực phẩm. Thái độ tích cực chưa được chuyển hóa đầy đủ thành thực hành tốt do thiếu trang thiết bị, nhân lực ổn định và sự giám sát chặt chẽ từ cơ quan quản lý. Các biểu đồ phân phối điểm KAP có thể minh họa rõ sự phân bố điểm số và mối liên hệ với các biến số nhân khẩu học.
So sánh với các nghiên cứu tại An Giang, Bắc Ninh và TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh có tỷ lệ giấy chứng nhận ATTP cao hơn nhưng vẫn chưa tương xứng với mức độ tuân thủ thực hành vệ sinh. Điều này cho thấy cần có sự phối hợp đồng bộ giữa nâng cao nhận thức và tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường nhân lực chuyên trách quản lý ATTP:
- Bổ sung cán bộ chuyên trách tại các đội QLTT, giảm kiêm nhiệm.
- Thời gian thực hiện: trong 12 tháng tới.
- Chủ thể thực hiện: Sở Công Thương, UBND tỉnh Tây Ninh.
Nâng cao năng lực và đào tạo chuyên sâu cho cán bộ quản lý:
- Tổ chức các khóa bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thanh tra, kiểm tra ATTP.
- Thời gian: 6 tháng đầu năm 2025.
- Chủ thể: Bộ Công Thương phối hợp với Sở Y tế.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm:
- Thiết lập kế hoạch kiểm tra định kỳ các cơ sở sản xuất bún.
- Áp dụng mức xử phạt nghiêm minh đối với vi phạm về sử dụng chất cấm.
- Thời gian: triển khai ngay trong năm 2024.
- Chủ thể: Lực lượng QLTT, Chi cục An toàn Thực phẩm.
Nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành của chủ cơ sở sản xuất:
- Tổ chức tập huấn, truyền thông về ATTP, nhấn mạnh tác hại của các chất cấm.
- Hỗ trợ trang bị dụng cụ bảo hộ lao động và thiết bị vệ sinh.
- Thời gian: liên tục, ưu tiên 6 tháng đầu năm 2025.
- Chủ thể: Sở Y tế, Hội Nông dân, các tổ chức xã hội.
Xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm bún an toàn:
- Hỗ trợ các cơ sở xây dựng thương hiệu, nhãn mác rõ ràng, minh bạch nguồn gốc.
- Thời gian: 12-18 tháng.
- Chủ thể: Sở Công Thương, Hiệp hội ngành nghề.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm:
Giúp hiểu rõ thực trạng quản lý, từ đó xây dựng chính sách, kế hoạch kiểm tra và xử lý vi phạm hiệu quả.Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm truyền thống:
Nâng cao nhận thức, kiến thức và thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo sản phẩm sạch, an toàn.Các tổ chức đào tạo, truyền thông về an toàn thực phẩm:
Sử dụng kết quả nghiên cứu để thiết kế chương trình tập huấn, truyền thông phù hợp với đặc điểm địa phương.Nhà nghiên cứu và sinh viên chuyên ngành chính sách công, quản lý nhà nước:
Tham khảo mô hình nghiên cứu, phương pháp và kết quả để phát triển các đề tài nghiên cứu liên quan.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao công tác quản lý ATTP tại Tây Ninh còn nhiều hạn chế?
Do lực lượng quản lý thiếu cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ, thiếu trang thiết bị và chế độ đãi ngộ chưa phù hợp, dẫn đến hiệu quả kiểm tra, giám sát thấp.Kiến thức về ATTP của chủ cơ sở sản xuất bún như thế nào?
Chủ cơ sở có kiến thức cơ bản tốt, nhận biết bún là thực phẩm và hiểu thực phẩm an toàn không gây hại, nhưng còn thiếu nhận thức về các rủi ro ngộ độc thực phẩm trong các giai đoạn sản xuất và bảo quản.Thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở ra sao?
Thực hành còn nhiều hạn chế, chỉ 56,6% cơ sở trang bị dụng cụ bảo đảm vệ sinh, nhiều công nhân làm việc không ổn định, ảnh hưởng đến việc duy trì vệ sinh liên tục.Giải pháp nào hiệu quả để nâng cao ATTP tại các cơ sở sản xuất bún?
Tăng cường nhân lực chuyên trách, đào tạo chuyên sâu, kiểm tra định kỳ, xử lý nghiêm vi phạm, tập huấn nâng cao nhận thức và hỗ trợ trang thiết bị bảo hộ.Luật An toàn thực phẩm năm 2010 có vai trò gì trong nghiên cứu này?
Luật cung cấp khung pháp lý, quy định trách nhiệm quản lý nhà nước và các tiêu chuẩn sản xuất, kinh doanh thực phẩm, làm cơ sở cho việc đánh giá và đề xuất chính sách quản lý ATTP tại Tây Ninh.
Kết luận
- Công tác quản lý an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất bún tại Tây Ninh còn nhiều hạn chế do thiếu nhân lực chuyên trách, trang thiết bị và chế độ chính sách chưa phù hợp.
- Chủ cơ sở sản xuất bún có kiến thức cơ bản về ATTP nhưng thực hành vệ sinh còn nhiều điểm yếu, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Việc không tổ chức kiểm tra định kỳ trong năm 2014 làm giảm hiệu quả giám sát và nâng cao ý thức tuân thủ.
- Các yếu tố như trình độ học vấn, tuổi tác và giấy chứng nhận ATTP có ảnh hưởng tích cực đến điểm KAP của chủ cơ sở.
- Cần triển khai đồng bộ các giải pháp về nhân lực, đào tạo, kiểm tra, xử lý vi phạm và nâng cao nhận thức để đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững ngành sản xuất bún tại Tây Ninh.
Hành động tiếp theo: Các cơ quan quản lý và chủ cơ sở cần phối hợp triển khai các giải pháp đề xuất, đồng thời tiếp tục nghiên cứu mở rộng phạm vi để nâng cao hiệu quả quản lý ATTP trên toàn quốc.