Trường đại học
Đại học Quốc gia Hà NộiChuyên ngành
Giáo dục xã hộiNgười đăng
Ẩn danhThể loại
luận văn2015
Phí lưu trữ
30.000 VNĐMục lục chi tiết
Tóm tắt
Luận văn tập trung nghiên cứu về phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng Việt, đặc biệt là các phương thức gián tiếp biểu hiện hành động cầu khiến. Đồng thời, luận văn liên hệ với phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng Hán. Mục tiêu chính là kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó để nhận diện và miêu tả phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng Việt, sau đó nhận diện và miêu tả phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng Hán. Cuối cùng, so sánh đối chiếu một số đặc điểm của phát ngôn cầu khiến gián tiếp giữa hai ngôn ngữ trên một số tác phẩm văn học để tìm ra sự giống và khác nhau. Luận văn sử dụng phương pháp miêu tả và so sánh đối chiếu, kết hợp các thủ pháp phân tích nghĩa, phân tích ngữ cảnh, và mô hình hóa.
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về phát ngôn cầu khiến gián tiếp tiếng Việt, đặc biệt là phương thức gián tiếp biểu hiện hành động cầu khiến. Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của những nhà nghiên cứu trước, luận văn sẽ nhận diện và miêu tả phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng Việt; sau đó nhận diện và miêu tả phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng Hán và so sánh đối chiếu một số đặc điểm. Luận văn mong muốn đóng góp một phần nhỏ cho lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp – ngữ nghĩa của lời trong sự so sánh đối chiếu giữa hai ngôn ngữ.
Luận văn sử dụng phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh đối chiếu với các thủ pháp phân tích nghĩa, phân tích ngữ cảnh, mô hình hóa. Luận văn quan tâm tới ngữ cảnh đủ rộng để có thể phân tích ngữ nghĩa trong từng phát ngôn cụ thể. Vì vậy, tư liệu trích dẫn không phải ở dạng cô lập mà thường kèm theo ngữ cảnh giúp phát hiện các hành động ngôn trung trực tiếp cũng như gián tiếp của phát ngôn. Các ví dụ được sử dụng trong luận văn đều nằm trong ngữ cảnh hội thoại. Việc nghiên cứu phát ngôn cầu khiến trong tiếng Việt và liên hệ với tiếng Hán rất có ý nghĩa đối với những vấn đề lý luận và thực tiễn sử dụng ngôn ngữ.
Từ cách hiểu hiển ngôn là ý nghĩa được biểu thị trực tiếp bằng ngôn từ ở lời, còn hàm ngôn là ý nghĩa được suy ra từ thao tác suy ý qua ngôn từ hoặc ngữ cảnh, có thể vận dụng để phân biệt hành động ngôn trung hiển ngôn/hàm ngôn. Hành động hiển ngôn là hành động mà đích ngôn trung được biểu hiện trực tiếp bằng dấu hiệu hình thức ngôn từ đặc trưng cho nó, còn gọi là phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung. Hành động hàm ngôn là hành động mà đích ngôn trung không được biểu hiện trực tiếp bằng phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung của nó mà được biểu hiện gián tiếp thông qua phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung của hành động khác.
Phát ngôn hỏi (2) chỉ chứa một hành động ngôn trung hỏi nhằm một đích ngôn trung chính là muốn người nghe trả lời cho lời hỏi, nên đó là hành động ngôn trung trực tiếp/hiển ngôn. Câu hỏi (1) hỏi về khả năng thực hiện hành động tức là hành động chưa xảy ra. Vì thế phát ngôn hỏi này có hàm ý: người nói muốn người nghe sẽ thực hiện hành động đó. Hàm ý này được nhận biết bằng dấu hiệu ngôn ngữ tạo ra định hướng ngữ nghĩa trong phát ngôn là kết cấu.
Phát ngôn hỏi (1) chứa hai hành động: Hành động hỏi với thứ năng dẩn nhập, gọi là hành động dẩn nhập được biểu thị bằng hiển ngôn và hành động gián tiếp thể hiện ý cầu khiến. Trong hành động hỏi, ý nghĩa cầu khiến là hàm ý của lời, được bày tỏ gián tiếp thông qua hành động hỏi nên ý nghĩa cầu khiến này là ý nghĩa hàm ngôn. Còn ý nghĩa hỏi được nhận diện trực tiếp bằng dấu hiệu ngôn ngữ hiển hiện trong phát ngôn (khuôn cấu trúc hỏi: có ... không?) – phương tiện trực tiếp chỉ ra lực ngôn trung hỏi – được gọi là ý nghĩa hiển ngôn.
Hành động cầu khiến là khái niệm tổng quát bao gồm các hành động ngôn trung có ý nghĩa “cầu” (cầu, nhờ, mời, chúi, xin...) và các hành động ngôn trung có ý nghĩa “khiến” (yêu cầ̀u, ra lệnh, cấm, cho phép...). Cầu và khiến đều giống nhau ở đích ngôn trung, đều yêu cầu người nghe thực hiện hành động mà người nói mong muốn. Sự khác nhau giữa cầu và khiến là ở mức độ của hiệu lực ngôn trung: nếu như cầu kêu gọi thiện chí, sự tự nguyện hành động của người nghe thì khiến lại áp đặt cho người nghe, cưỡng ép người nghe phải hành động.
Ví dụ: - Lời cầu: Con mời bố mẹ ra ăn cơm. -> lời người mẹ sai khiến con đổ rác. Giữa hai cực đó là những hành động vừa có tính cầu vừa có tính khiến (khuyên, đề nghị...). Do nên tập hợp các hành động trên thành hành động cầu khiến thì có phạm vi bao quát hơn khái niệm mệnh lệnh chỉ tương ứng với khiến mà thôi.
Ý nghĩa cầu khiến của phát ngôn chính là nội dung của hành động cầu khiến. Nó là nghĩa tình thái do mục đích nói của người nói quy định, thuộc phạm vi dụng học, nó phân biệt với nghĩa tình thái nhận thức vốn là tình thái của hiện thực được phản ánh trong lời lồng trong nghĩa sự tình gọi là tình thái của nội dung sự tình, thường được biểu hiện bằng phụ từ như đã (sự tình đang diễn ra = hiện thực hóa), sẽ (sự tình sẽ diễn ra = chưa hiện thực hóa).
Ví dụ: Ra lệnh, cấm là khiến cao nhất, yêu cầu là khiến cao, đề nghị là khiến trung bình, khuyên là khiến thấp, mời là cầu trung bình, xin/xin phép là cầu cao,... và nài, van, lạy là cầu cao nhất.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, để một hành động nói chung, một hành động ngôn ngữ nói riêng đạt được hiệu quả đúng với đích của nó thì phải thỏa mãn các điều kiện sử dụng. “Điều kiện sử dụng các hành vi tại lời là những điều kiện mà một hành vi tại lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát ngôn ra nó.”
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên cho rằng: “Điều kiện sử dụng hành động tại lời là những nhân tố cần thiết cho phép thực hiện một hành động tại lời nhất định trong một ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Điều kiện sử dụng các hành động tại lời theo J.Austin là các điều kiện “may mắn” (felicity condition) vì nếu chúng được bảo đảm thì hành động mới thành công.
Seaгle gọi hành động tại lời là điều kiện thỏa mãn, bao gồm bốn loại sau: Điều kiện nội dung mệnh đề: chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Điều kiện chuẩn bị: bao gồm những hiểu biết của người phát ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người nghe. Điều kiện chân thành: chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng của người phát ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người nghe, như xác tín đòi hỏi niềm tin, mệnh lệnh đòi hỏi mong muốn, hứa hẹn đòi hỏi ý định người nói. Điều kiện căn bản: là điều kiện đưa ra kiểu trách nhiệm mà người nói, người nghe bị ràng buộc khi hành động tại lời đó được phát ra.
Bạn đang xem trước tài liệu:
Luận văn phát ngôn cầu khiến gián tiếp trong tiếng việt liên hệ với tiếng hán
Tài liệu "Luận Văn Về Phát Triển Giáo Dục Xã Hội Tại Đại Học Quốc Gia Hà Nội" cung cấp cái nhìn sâu sắc về các phương pháp và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục xã hội tại một trong những cơ sở giáo dục hàng đầu của Việt Nam. Tác phẩm này không chỉ phân tích thực trạng giáo dục xã hội mà còn đề xuất các giải pháp cụ thể để cải thiện và phát triển bền vững. Độc giả sẽ tìm thấy những lợi ích thiết thực từ việc áp dụng các chính sách giáo dục hiện đại, từ đó góp phần nâng cao năng lực và sự phát triển toàn diện cho sinh viên.
Để mở rộng thêm kiến thức về các vấn đề liên quan, bạn có thể tham khảo các tài liệu như Luận án tiến sĩ thực hiện chính sách khoa học và công nghệ từ thực tiễn đại học thái nguyên hiện nay, nơi cung cấp cái nhìn về chính sách khoa học và công nghệ trong giáo dục đại học. Bên cạnh đó, Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại học công lập ở việt nam sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về cơ chế tự chủ tài chính trong giáo dục. Cuối cùng, Chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở việt nam sẽ mang đến cái nhìn tổng quan về chính sách tự chủ trong giáo dục đại học tại Việt Nam. Những tài liệu này sẽ giúp bạn mở rộng hiểu biết và khám phá sâu hơn về các khía cạnh của giáo dục xã hội.