I. Rối Loạn Lo Âu Tổng Quan Về Nghiên Cứu và Thực Trạng
Lo âu và sợ hãi là những cảm xúc cơ bản của con người, giúp chúng ta nhận diện nguy hiểm. Tuy nhiên, khi nỗi sợ này dai dẳng, quá mức và gây rối loạn chức năng hành vi, nó có thể dẫn đến rối loạn lo âu. Theo WHO (2023), ước tính có khoảng 4% dân số toàn cầu mắc rối loạn lo âu, tương ứng với 301 triệu người. Tỷ lệ này đã tăng hơn 55% từ năm 1990 đến 2019. Các số liệu cho thấy tỷ lệ phổ biến và mắc bệnh ngày càng tăng. Ở Việt Nam, một nghiên cứu toàn quốc cho thấy khoảng 14,9% dân số có vấn đề liên quan đến rối loạn tâm thần, trong đó lo âu chiếm 2,6%. Nghiên cứu khác ở TP.HCM cho thấy tỷ lệ người mắc các triệu chứng rối loạn lo âu từ nhẹ đến rất nặng lần lượt là 11,32%, 21,05%, 7,11% và 7,89%. Rối loạn lo âu cản trở các hoạt động hàng ngày và có thể làm suy giảm cuộc sống gia đình, xã hội, trường học hoặc công việc (WHO, 2023). Không những vậy, rối loạn lo âu thường xảy ra cùng với các rối loạn khác như trầm cảm, rối loạn triệu chứng cơ thể, rối loạn nhân cách, rối loạn sử dụng chất (Kessler và cộng sự, 2005).
1.1. Nghiên Cứu Về Thực Trạng Rối Loạn Lo Âu Trên Thế Giới
Rối loạn lo âu là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất, ảnh hưởng đến khoảng 1/8 tổng dân số thế giới và có tỷ lệ kéo dài suốt đời là 24,9% (Cates và cộng sự, 1996). Theo WHO (2023), 301 triệu người trên thế giới mắc rối loạn lo âu, khiến nó trở thành rối loạn tâm thần phổ biến nhất năm 2019. Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy tỷ lệ này có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia và khu vực. Một nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật toàn cầu cho thấy số người mắc rối loạn lo âu tăng từ 232,6 triệu người năm 2005 lên 267,2 triệu người vào năm 2015 (Vos và cộng sự, 2016). Như vậy, rối loạn lo âu là một vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng.
1.2. Tình Hình Nghiên Cứu Rối Loạn Lo Âu Tại Việt Nam Hiện Nay
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về thực trạng rối loạn lo âu, tuy nhiên hầu hết là các nghiên cứu riêng lẻ ở từng đối tượng, từng khu vực, độ tuổi khác nhau mà chưa có nhiều nghiên cứu chung và tổng thể trên toàn quốc. Một nghiên cứu trên 210 bệnh nhân đái tháo đường, tăng huyết áp tại bệnh viện huyện Bình Chánh có đến 88.57% mắc rối loạn lo âu (Trần Văn Thiện, 2021). Một nghiên cứu khác ở học sinh lớp 12 tại Thái Bình cho thấy tỷ lệ học sinh có biểu hiện lo âu là 24%, trầm cảm là 60% (Ngô Văn Mạnh và cộng sự, 2021). Điều này cho thấy rối loạn lo âu là một vấn đề đáng quan tâm trong cộng đồng và cần có nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ hơn về thực trạng này.
II. Nguyên Nhân Gây Rối Loạn Lo Âu Yếu Tố Ảnh Hưởng
Theo WHO (2023), rối loạn lo âu, giống như các tình trạng sức khỏe tâm thần khác, là kết quả của sự tương tác phức tạp của các yếu tố xã hội, tâm lý và sinh học. Bất cứ ai cũng có thể mắc rối loạn lo âu, nhưng những người từng trải qua lạm dụng, sự mất mát nghiêm trọng hoặc những trải nghiệm bất lợi khác thì có nhiều khả năng mắc rối loạn lo âu này hơn. Các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế có vai trò lớn đối với rối loạn lo âu. Các stress hàng ngày có thể gây ra rối loạn lo âu, đặc biệt với những người có tính dễ tổn thương về gen hoặc tâm lý. Ví dụ các stress về tài chính do thu nhập thấp có mối quan hệ chặt chẽ với tỉ lệ cao rối loạn lo âu (Kessler và cộng sự, 2005).
2.1. Các Yếu Tố Tâm Lý và Xã Hội Gây Lo Lắng Rối Loạn Lo Âu
Nghèo đói hoặc sống trong môi trường không an toàn làm gia tăng stress và lo âu. Các kích thích gây stress khác như cưới hỏi, ly hôn, thất nghiệp, áp lực học tập, bệnh tật, sang chấn, hạn chế về hỗ trợ xã hội đều tăng nguy cơ mắc rối loạn lo âu (Weems và cộng sự, 2007). Các đặc điểm tính cách như tính bất ổn thần kinh cao, tính hướng ngoại thấp và có đặc điểm rối loạn nhân cách (đặc biệt là những đặc điểm thuộc Nhóm C) ít nhất là dấu hiệu của nguy cơ mắc một số rối loạn lo âu. Các đặc điểm tính cách cực đoan cũng cho thấy rối loạn chức năng nhiều hơn ở những bệnh nhân mắc rối loạn lo âu (Brandes và cộng sự, 2006).
2.2. Yếu Tố Sinh Học và Tuổi Tác Liên Quan Rối Loạn Lo Âu
Về tuổi, một nghiên cứu tổng hợp cho thấy tuổi trung bình khởi phát tất cả các loại rối loạn lo âu là 21,3 tuổi (Lijster và cộng sự, 2017). Phụ nữ có tỷ lệ mắc rối loạn lo âu cao hơn đáng kể so với nam giới (Craske, 2003). Kessler và cộng sự (1994) đã chỉ ra rằng phụ nữ có tỷ lệ mắc bất kỳ rối loạn lo âu nào là 30,5%, so với 19,5% ở nam giới. Bên cạnh đó, một nghiên cứu tổng hợp cho thấy khi cha mẹ mắc rối loạn lo âu, con cái có nhiều khả năng mắc rối loạn lo âu hơn (Lawrence và cộng sự, 2019).
2.3. Bệnh Lý Thực Thể Gây Ra Các Vấn Đề Rối Loạn Lo Âu
Ngoài ra, rối loạn lo âu cũng liên quan đến vấn đề bệnh thực thể. Các nghiên cứu trước đây chứng minh rằng hơn một nửa số bệnh nhân mắc bệnh lao có thể bị trầm cảm và lo âu do một số thách thức như thời gian điều trị kéo dài, tác dụng phụ lớn và tình trạng kháng thuốc dẫn đến tỷ lệ rối loạn tâm thần cao ở bệnh nhân lao (Mohammedhussein và cộng sự, 2020). Nguyên nhân của rối loạn lo âu bao gồm cả yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội (Shri, 2010).
III. Top Phương Pháp Hỗ Trợ Điều Trị Rối Loạn Lo Âu
Nhiều phương pháp điều trị đã được chứng minh là có hiệu quả đối với rối loạn lo âu như các biện pháp can thiệp bằng thuốc (Baldwin và cộng sự, 2014; Reinhold và Rickels, 2015). Phương pháp tâm lý trị liệu hầu như luôn là phương pháp điều trị được lựa chọn, ngoại trừ những trường hợp lo lắng quá nghiêm trọng đến mức cần phải giảm nhẹ ngay lập tức để khôi phục chức năng và ngăn ngừa hậu quả nghiêm trọng tức thời. Tuy nhiên, điều trị dược lý thường là lựa chọn đầu tiên của các bác sĩ lâm sàng vì chi phí và hạn chế về nguồn lực của các phương pháp tâm lý thay thế (Chen, 2019).
3.1. Lợi Ích của Liệu Pháp Tâm Lý Trị Liệu Rối Loạn Lo Âu
Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) là biện pháp can thiệp hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất đối với rối loạn lo âu tổng quát và rối loạn hoảng sợ khi so sánh với can thiệp hóa dược (Heuzenroeder, 2004). Cả biện pháp hóa dược và phương pháp tâm lý đều mang lại hiệu quả nhất định khi điều trị rối loạn lo âu. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tình trạng, đặc điểm, điều kiện của từng thân chủ mà từng phương pháp hoặc sự kết hợp cả hai sẽ hỗ trợ thân chủ tốt hơn.
3.2. Tổng Quan Về Liệu Pháp Nhận Thức Hành Vi CBT Cho Lo Âu
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) là một trong những liệu pháp tâm lý phổ biến và đã được chứng minh rõ ràng về hiệu quả điều trị rối loạn lo âu ở người lớn bởi vô số nghiên cứu lâm sàng và thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát tốt (DiMauro, 2013). Liệu pháp này tập trung vào việc thay đổi các suy nghĩ và hành vi tiêu cực, giúp người bệnh kiểm soát và giảm bớt các triệu chứng lo âu.
IV. Nghiên Cứu Thực Hành Hỗ Trợ Tâm Lý Biểu Hiện Rối Loạn Lo Âu
Theo APA (2013), rối loạn lo âu được đặc trưng bởi nỗi sợ hãi hoặc lo lắng quá mức ở cá nhân, không phù hợp với thực tế hoặc chỉ tập trung vào những tình huống không thực sự nguy hiểm, kèm theo sự nhiễu loạn về hành vi và ảnh hưởng đến các chức năng cuộc sống. Các triệu chứng của rối loạn lo âu có thể chia thành bốn nhóm: cảm xúc, cơ thể, hành vi và nhận thức (Clark và Beck, 2011).
4.1. Khái Niệm và Đặc Điểm Lâm Sàng của Rối Loạn Lo Âu
Trong khuôn khổ của đề án, học viên sử dụng khái niệm rối loạn lo âu này. Các triệu chứng cụ thể có thể khác nhau về mức độ nghiêm trọng. Các triệu chứng về cảm xúc bao gồm lo lắng, căng thẳng, sợ hãi, bồn chồn, khó chịu, thiếu kiên nhẫn, bực bội. Các triệu chứng về cơ thể có thể là tăng nhịp tim, khó thở, đau ngực, chóng mặt, đổ mồ hôi, buồn nôn, run sợ, ngứa ran, yếu cơ, căng cứng cơ, khô miệng. Các triệu chứng về hành vi bao gồm né tránh, trốn thoát, tìm sự an toàn, bồn chồn, đóng băng, khó nói.
4.2. Phân Loại Các Dạng Rối Loạn Lo Âu Phổ Biến Hiện Nay
Theo APA (2013), rối loạn lo âu có nhiều dạng khác nhau như rối loạn lo âu chia cách, ám sợ xã hội, ám sợ đặc hiệu, ám sợ khoảng trống, không nói có chọn lọc, rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn lo âu do một tình trạng bệnh lý khác. Các dạng rối loạn lo âu này phân biệt với nhau ở vật hoặc tình huống tạo ra sợ hãi, lo lắng, hoặc hành vi tránh né và các suy nghĩ kèm theo.
V. Đánh Giá và Can Thiệp Hiệu Quả Rối Loạn Lo Âu Thực Hành
Để đánh giá hiệu quả của việc hỗ trợ tâm lý, cần thu thập thông tin đầy đủ về thân chủ, hoàn cảnh gặp gỡ, lý do tìm kiếm sự giúp đỡ, ấn tượng ban đầu và mô tả chi tiết về ca bệnh. Quá trình đánh giá bao gồm việc sử dụng các phương pháp phỏng vấn lâm sàng, quan sát lâm sàng, trắc nghiệm và các thang đo tâm lý. Dựa trên kết quả đánh giá, có thể xây dựng kế hoạch can thiệp phù hợp, xác định mục tiêu đầu ra và mục tiêu quá trình, đồng thời theo dõi tiến trình thực hiện và đánh giá hiệu quả can thiệp.
5.1. Phương Pháp Đánh Giá và Thu Thập Thông Tin Về Thân Chủ
Việc đánh giá rối loạn lo âu đòi hỏi sự thu thập thông tin toàn diện về thân chủ, bao gồm tiền sử cá nhân và gia đình, các yếu tố gây căng thẳng, triệu chứng và biểu hiện của bệnh. Các phương pháp phỏng vấn lâm sàng, quan sát lâm sàng và sử dụng các thang đo tâm lý là những công cụ quan trọng trong quá trình này.
5.2. Lập Kế Hoạch Can Thiệp và Đánh Giá Hiệu Quả Hỗ Trợ
Sau khi đánh giá, việc lập kế hoạch can thiệp cần dựa trên mục tiêu cụ thể và phù hợp với nhu cầu của từng thân chủ. Quá trình can thiệp cần được theo dõi sát sao, và hiệu quả cần được đánh giá định kỳ thông qua các công cụ khách quan và ý kiến chủ quan của thân chủ.
VI. Hướng Đi Tương Lai Khuyến Nghị Về Rối Loạn Lo Âu
Nghiên cứu về hỗ trợ tâm lý cho người bị rối loạn lo âu cần tiếp tục được đẩy mạnh để tìm ra những phương pháp can thiệp hiệu quả hơn, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà nguồn lực và sự nhận thức về sức khỏe tâm thần còn hạn chế. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà nghiên cứu, chuyên gia tâm lý và các cơ sở y tế để triển khai các chương trình can thiệp hiệu quả và đáp ứng nhu cầu của cộng đồng.
6.1. Nhu Cầu Nghiên Cứu Thêm Về Các Phương Pháp Hỗ Trợ Tâm Lý
Cần có nhiều nghiên cứu hơn về hiệu quả của các phương pháp hỗ trợ tâm lý khác nhau, đặc biệt là các phương pháp mới như liệu pháp chánh niệm (mindfulness), liệu pháp chấp nhận và cam kết (ACT) và các phương pháp can thiệp dựa trên công nghệ. Điều này sẽ giúp mở rộng phạm vi lựa chọn điều trị cho người bệnh và tối ưu hóa hiệu quả can thiệp.
6.2. Khuyến Nghị Về Nâng Cao Nhận Thức và Cung Cấp Dịch Vụ
Cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về rối loạn lo âu và tầm quan trọng của việc tìm kiếm sự giúp đỡ sớm. Các dịch vụ hỗ trợ tâm lý cần được mở rộng và dễ dàng tiếp cận hơn, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa, nơi mà nguồn lực còn hạn chế.