I. Tổng Quan Tính Nhân Văn Trong Tư Tưởng Nguyễn Trãi 55 ký tự
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, tính nhân văn luôn là giá trị cốt lõi, là thước đo giá trị của mọi thời đại. Dân tộc Việt Nam, với lịch sử dựng nước và giữ nước, luôn coi trọng giá trị nhân bản, nhân văn. Điều này thể hiện ở lòng yêu nước thương nòi, sự cố kết cộng đồng, tư tưởng lấy dân làm gốc, thân dân, an dân, khoan dân, trọng dân. Tư tưởng nhân văn không chỉ có giá trị trong lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Thời Lê sơ, Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng lớn, để lại di sản quý báu cho đời sau. Giá trị nhân văn được xem là nội dung cốt lõi trong hệ thống tư tưởng của ông, được thể hiện qua nhiều tác phẩm.
1.1. Khái niệm và vai trò của tính nhân văn trong lịch sử 48 ký tự
Tính nhân văn là một trong những giá trị cốt lõi trong văn hóa con người, tạo nên bản chất con người, là thước đo giá trị của mọi thời đại. Xã hội loài người nếu không có tính nhân văn sẽ không có lịch sử loài người. Theo đó, tính nhân văn đã hình thành trong tư tưởng triết học ở cả phương Đông và phương Tây từ rất sớm. Ở phương Đông tính nhân văn được thể hiện trong triết lý Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo là đề cao con người, coi con người là một chủ thể lớn trong trời đất, trong đó mối tương quan giữa người với trời đất là cái đạo tự nhiên, chú trọng cách xử thế nhân bản, hòa hợp, bao dung với mọi người.
1.2. Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh 49 ký tự
Trong lịch sử Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng lớn đã hình thành, như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Thánh Tông, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… và đỉnh cao là Hồ Chí Minh. Xuyên suốt những tư tưởng ấy, giá trị nhân bản, nhân văn luôn được coi là cốt lõi, là sức mạnh của dân tộc Việt Nam, được thể hiện ở lòng yêu nước thương nòi, sự cố kết cộng đồng, tư tưởng lấy dân làm gốc, thân dân, an dân, khoan dân, trọng dân nhằm khẳng định vai trò con người, đề cao sức mạnh của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
II. Điều Kiện Hình Thành Tư Tưởng Nhân Văn Nguyễn Trãi 58 ký tự
Sự hình thành tư tưởng nhân văn trong tư tưởng Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sâu sắc từ bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Công cuộc củng cố, xây dựng quốc gia Đại Việt, cùng với thực tiễn cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, đã tạo nên cơ sở hình thành tư tưởng này. Bên cạnh đó, tư tưởng nhân văn trong truyền thống văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong triết lý "Tam giáo", cũng đóng vai trò quan trọng. Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát triển những giá trị này, tạo nên một hệ thống tư tưởng nhân văn độc đáo.
2.1. Bối cảnh lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam 52 ký tự
Thời Lê sơ, là thời kỳ củng cố, xây dựng quốc gia Đại Việt hùng mạnh; đoàn kết sức mạnh toàn dân chống giặc Minh xâm lược. Sức dân được huy động mạnh mẽ trong xây dựng thế trận và các tuyến phòng thủ, nhân dân luôn sát cánh sẵn sàng chiến đấu cùng các thứ quân. Nhân dân cả nước tự giác thực hiện kế thanh dã triệt nguồn lương thảo của giặc, làm hậu thuẫn cho triều đình và trực tiếp tham gia đánh giặc tại chỗ. Đặc biệt, để huy động cao nhất sức dân, các đời vua thời Lê sơ đều chủ trương “khoan – giản – an – lạc” sức dân để làm “kế sâu rễ bền gốc”.
2.2. Ảnh hưởng của triết lý Tam giáo đến Nguyễn Trãi 54 ký tự
Ở phương Đông tính nhân văn được thể hiện trong triết lý Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo là đề cao con người, coi con người là một chủ thể lớn trong trời đất, trong đó mối tương quan giữa người với trời đất là cái đạo tự nhiên, chú trọng cách xử thế nhân bản, hòa hợp, bao dung với mọi người. Tính nhân văn ở phương Đông còn được thể hiện thông qua giáo lý dạy người phải luôn tự biết mình, biết bảo vệ, phát triển bản chất tốt đẹp của con người nhằm phục vụ cho hạnh phúc chung của nhân loại.
III. Nội Dung Cốt Lõi Tính Nhân Văn Trong Tư Tưởng Nguyễn Trãi 59 ký tự
Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi thể hiện qua nhiều nội dung cơ bản. Đó là quan điểm đề cao con người, vai trò của dân, an dân, thân dân, lấy dân làm gốc. Quan điểm nhân nghĩa được thể hiện trong tư tưởng của ông. Ông cũng đề cao sự hiếu sinh, khoan dung. Những nội dung này thể hiện một cách sâu sắc tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân và tư tưởng vì dân của Nguyễn Trãi.
3.1. Quan điểm đề cao con người và vai trò của dân 55 ký tự
Trong tác phẩm Ức Trai thi tập, đã thể hiện tính nhân văn trong tư tưởng Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng về vai trò của nhân dân trong đời sống xã hội “chìm thuyền mới biết dân như nước” (bài số 27, Quan hải) [69, tr. 60], tư tưởng về trời đất, thiên mệnh “cây hiểm hay đâu mệnh tại trời” (bài số 27, Quan hải), [69, tr. 60], và tư tưởng của con người suốt đời chỉ lo cho dân, cho nước “lòng nghĩ việc đời sinh tóc bạc” (bài số 37) [69, tr. 70].
3.2. Tư tưởng nhân nghĩa và hiếu sinh của Nguyễn Trãi 56 ký tự
Trong Lại có thư đáp Phương Chính ông viết: “Bảo cho chúng mày, ngược tặc - Phương Chính được biết: Phàm đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm căn bản, lấy chí dũng làm tư chất”; “Phàm mưu việc lớn thì nhân nghĩa làm gốc, thành công lớn thì lấy nhân nghĩa làm đầu. Duy có đầy đủ nhân nghĩa thì việc và công mới nên”. Đó còn là tư tưởng về thế giới qua quan niệm về trời, về thời thế. Trong Lại có thư dụ Vương Thông ông viết: “Ngày nay, vận trời quay vòng, vận đã đi rồi phải trở lại” [69, tr. 531], “Tôi nghe điều quý nhất ở người tuấn kiệt, chỉ là rõ thời thế, biết xét sự biến mà thôi” [69, tr.
IV. Ý Nghĩa Lịch Sử Tư Tưởng Nhân Văn Nguyễn Trãi 57 ký tự
Tính nhân văn trong tư tưởng Nguyễn Trãi góp phần làm phong phú và sâu sắc truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam. Nó là nguồn động lực và sức mạnh tinh thần của dân tộc trong công cuộc đổi mới xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi còn góp phần đấu tranh chống lại những mặt trái của cơ chế thị trường, những sản phẩm văn hóa xấu độc, và những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống.
4.1. Góp phần làm phong phú truyền thống nhân văn Việt Nam 59 ký tự
Nhân văn là đường lối chính trị, là chính sách để bảo vệ Tổ quốc có phạm vi rộng lớn được sử dụng như một sức mạnh vật chất thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội đầu thế kỷ XV và sau đó nhiều thế kỷ. Cho đến nay, tính nhân văn đã trở thành một truyền thống, phẩm chất đạo đức cao đẹp của dân tộc ta, trở thành biểu tượng của cái đẹp, cái cao cả và cái thiện. Đó là sự thể hiện tư tưởng yêu nước, yêu hòa bình và lòng nhân đạo không chỉ có ở Nguyễn Trãi mà của dân tộc Việt Nam.
4.2. Động lực tinh thần trong công cuộc xây dựng đất nước 58 ký tự
Điều đó càng có ý nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI), Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; đồng thời góp phần làm sáng tỏ thêm quan điểm về lấy “dân làm gốc” của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới. Tính nhân văn trong tư tưởng Nguyễn Trãi còn góp phần đấu tranh chống lại những mặt trái của cơ chế thị trường, những sản phẩm văn hóa xấu độc của thời kỳ mở cửa giao lưu hội nhập quốc tế… tác động đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đấu tranh chống lại những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên.
V. Giá Trị và Bài Học Từ Tư Tưởng Nguyễn Trãi 53 ký tự
Tư tưởng Nguyễn Trãi có giá trị to lớn trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Những bài học từ tư tưởng nhân văn của ông vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Nguyễn Trãi giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc, đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
5.1. Giá trị trong xây dựng xã hội dân chủ công bằng 54 ký tự
Trong giai đoạn cách mạng mới, việc nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Trãi là một vấn đề cần thiết. Thực tế cũng đã có rất nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi, đặc biệt là tình nhân văn trong tư tưởng của ông vẫn còn mới và chưa được đi sâu phân tích hết những nội dung tiềm ẩn bên trong hệ tư tưởng ấy.
5.2. Bài học về lòng yêu nước và tinh thần vì dân 52 ký tự
Nguyễn Trãi rất tự hào về lịch sử dân tộc, tin tưởng ở tương lai. Ở ông, ý thức dân tộc đã phát triển đến trình độ cao. Ông là người đã đưa chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích đến đỉnh cao của nó. Trong cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đã đề ra và thực hiện chính sách vừa đánh vừa đàm từ đầu cho đến cuối. Chính sách địch vận tài tình của Nguyễn Trãi đã làm cho nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Minh bớt đi sự hy sinh xương máu. Ở Nguyễn Trãi chữ “thời” và chữ “nhân” nổi bật lên như sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông. Đó chính là thời cơ và thời thế; đó là nhân bản, nhân nghĩa và nhân văn.
VI. Nghiên Cứu và Phát Huy Tư Tưởng Nhân Văn Nguyễn Trãi 59 ký tự
Việc nghiên cứu tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi cần được tiếp tục đẩy mạnh, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Cần có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, phân tích một cách toàn diện và hệ thống tư tưởng Nguyễn Trãi. Đồng thời, cần có những giải pháp cụ thể để phát huy tư tưởng nhân văn của ông trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước.
6.1. Đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng Nguyễn Trãi 58 ký tự
Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Tính nhân văn – một nội dung cốt lõi mang triết lý sâu sắc, bao trùm toàn bộ tư tưởng Nguyễn Trãi và cuộc đời ông, là tư tưởng có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn nên đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Có thể khái quát các công trình nghiên cứu thành ba hướng chính như sau: Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu liên quan đến những đặc điểm, điều kiện lịch sử hình thành tính nhân văn trong tư tưởng Nguyễn Trãi.
6.2. Ứng dụng tư tưởng nhân văn vào thực tiễn xây dựng đất nước 59 ký tự
Trong Chiếu hậu tự huấn - Dạy con nối ngôi, để dạy thái tử, ông viết: “Cha đã dựng nền, mà con không xây nhà, lợp mái; cha đã khẩn ruộng mà con không cấy lúa, trồng cây; như thế sao thành được chí ta, sao giữ được nghiệp ta, mà mong truyền dõi lâu dài. Vả lại, trông mong vào người có nhân, đó là dân. Chở thuyền, đắm thuyền cũng lại là dân. Giúp đỡ cho người có đức là trời, khó biết không thường cũng lại là trời” [70, tr.