Tổng quan nghiên cứu
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) của người dân tộc thiểu số (DTTS) tại xã Đăk Xú, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum năm 2017 chỉ đạt khoảng 19,7%, thấp hơn nhiều so với các nhóm dân cư khác. Xã Đăk Xú có dân số 7.785 người, trong đó DTTS chiếm 64,4%, sinh sống chủ yếu ở vùng núi, giao thông khó khăn và điều kiện kinh tế còn nhiều hạn chế. Từ ngày 01/8/2017, chính sách cấp thẻ BHYT miễn phí cho người DTTS tại xã bị thu hẹp do thay đổi khu vực ưu đãi, dẫn đến số lượng người DTTS có thẻ BHYT giảm mạnh từ 5.013 xuống còn 986 thẻ, tương đương 35,1% tổng số người DTTS tại địa phương.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng tham gia BHYT của người DTTS tại xã Đăk Xú năm 2018, đồng thời xác định các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT. Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 11/2017 đến tháng 7/2018, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp định tính với cỡ mẫu 243 người DTTS từ 18 đến 60 tuổi. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp nâng cao tỷ lệ bao phủ BHYT, góp phần bảo vệ sức khỏe và giảm thiểu rủi ro tài chính cho người DTTS tại vùng khó khăn.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên ba nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT của người DTTS: yếu tố cá nhân, dịch vụ cung cấp BHYT và dịch vụ khám chữa bệnh (KCB) BHYT.
- Yếu tố cá nhân bao gồm thu nhập, tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe và kiến thức về BHYT. Thu nhập và trình độ học vấn được xem là những yếu tố quyết định khả năng và ý thức tham gia BHYT.
- Dịch vụ cung cấp BHYT liên quan đến các yếu tố như truyền thông về BHYT, địa điểm cung cấp thẻ, mức phí mua BHYT, thủ tục tham gia và thời gian cấp thẻ.
- Dịch vụ KCB BHYT bao gồm thủ tục KCB, thủ tục chuyển tuyến, cơ sở vật chất, thái độ phục vụ và năng lực của cán bộ y tế.
Khung lý thuyết này được xây dựng dựa trên các nghiên cứu trong và ngoài nước về BHYT, đặc biệt chú trọng đến đặc điểm văn hóa, xã hội của người DTTS và các chính sách BHYT hiện hành.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang có phân tích, kết hợp phương pháp định lượng và định tính.
- Nguồn dữ liệu: Thu thập số liệu định lượng từ 243 người DTTS trong độ tuổi 18-60 tại 8/14 thôn xã Đăk Xú, sử dụng phiếu phỏng vấn có cấu trúc. Dữ liệu định tính được thu thập qua 6 cuộc phỏng vấn sâu với các cán bộ quản lý và 3 nhóm thảo luận nhóm với 12 người DTTS có và không có thẻ BHYT.
- Phương pháp chọn mẫu: Mẫu được chọn ngẫu nhiên nhiều giai đoạn, bắt đầu từ danh sách người DTTS tại các thôn, sau đó chọn ngẫu nhiên hộ gia đình và cá nhân phù hợp tiêu chuẩn.
- Phân tích số liệu: Số liệu định lượng được nhập và xử lý bằng phần mềm Epidata 3.1 và STATA 10, sử dụng kiểm định chi bình phương (χ2) để xác định mối liên quan giữa các biến. Dữ liệu định tính được mã hóa và phân tích theo chủ đề nhằm bổ sung và giải thích kết quả định lượng.
- Timeline nghiên cứu: Thu thập dữ liệu thực địa từ tháng 2 đến tháng 4/2018, tổng hợp và phân tích dữ liệu đến tháng 7/2018.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Tỷ lệ tham gia BHYT thấp: Trong 243 người DTTS được khảo sát, chỉ có 32,1% có thẻ BHYT, trong đó 82,1% tham gia theo hình thức BHYT hộ gia đình (HGĐ). Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ bao phủ BHYT toàn quốc đạt 81,7% năm 2016.
Phân bố theo thôn và nhóm tuổi: Tỷ lệ tham gia BHYT phân bố không đồng đều giữa các thôn, cao nhất là thôn Đăk Pil với 87,5%, thấp nhất là thôn Đăk Long chỉ 3,4%. Nhóm tuổi 30-39 có tỷ lệ tham gia BHYT cao nhất (42,3%), trong khi nhóm tuổi 50-60 thấp nhất (15,4%).
Yếu tố liên quan đến tham gia BHYT: Người có thu nhập trên 1 triệu đồng/tháng có khả năng tham gia BHYT cao gấp 2 lần so với nhóm thu nhập thấp hơn. Trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên làm tăng khả năng tham gia BHYT gấp 3,5 lần so với trình độ thấp hơn. Nghề nghiệp ngoài nông nghiệp giúp tăng khả năng tham gia BHYT gấp 4,5 lần so với người làm nông.
Lý do không tham gia BHYT: Đa số người DTTS không tham gia BHYT do không có tiền mua (95,2%). Tỷ lệ dự định tham gia BHYT trong tương lai là rất cao, đạt 90,5%, cho thấy nhu cầu và ý thức về BHYT còn lớn.
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy tỷ lệ tham gia BHYT của người DTTS tại xã Đăk Xú còn thấp, đặc biệt so với mức bao phủ BHYT toàn quốc. Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập thấp và trình độ học vấn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng chi trả và nhận thức về BHYT. Sự phân bố không đồng đều giữa các thôn phản ánh sự khác biệt về điều kiện kinh tế, mức độ tiếp cận thông tin và dịch vụ y tế.
So sánh với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, các yếu tố thu nhập, học vấn và nghề nghiệp đều được xác định là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT. Lý do không có tiền mua BHYT cũng phù hợp với các nghiên cứu tại các vùng khó khăn khác, cho thấy cần có chính sách hỗ trợ tài chính hiệu quả hơn.
Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ phân bố tỷ lệ tham gia BHYT theo thôn và nhóm tuổi, bảng so sánh tỷ lệ tham gia theo các nhóm thu nhập, học vấn và nghề nghiệp để minh họa rõ nét các mối liên quan.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường chỉ đạo và chính sách hỗ trợ tài chính: Ủy ban nhân dân huyện Ngọc Hồi cần chỉ đạo quyết liệt nhằm tăng tỷ lệ tham gia BHYT của người DTTS, đặc biệt là nhóm thu nhập thấp và làm nông, thông qua việc hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ phí mua BHYT trong vòng 1-2 năm tới.
Nâng cao công tác truyền thông, giáo dục: Bảo hiểm xã hội huyện phối hợp với ngành y tế tăng cường truyền thông, cung cấp thông tin về lợi ích BHYT đến từng hộ gia đình, tập trung vào nhóm có trình độ học vấn thấp, nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức về BHYT trong vòng 6-12 tháng.
Đơn giản hóa thủ tục và cải thiện dịch vụ BHYT: Rút ngắn thời gian cấp thẻ BHYT, cải thiện thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh BHYT để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia và sử dụng BHYT hiệu quả.
Phát triển mạng lưới cung cấp BHYT tại địa phương: Mở rộng điểm bán BHYT tại các thôn, đặc biệt vùng sâu vùng xa, phối hợp với các tổ chức cộng đồng để hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ BHYT nhanh chóng trong vòng 1 năm.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cán bộ quản lý chính sách y tế và BHYT: Giúp hiểu rõ thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT của người DTTS, từ đó xây dựng chính sách phù hợp.
Nhà nghiên cứu và học viên ngành y tế công cộng: Cung cấp dữ liệu thực tiễn và khung lý thuyết về BHYT trong nhóm dân cư đặc thù, hỗ trợ nghiên cứu sâu hơn về an sinh xã hội.
Cán bộ y tế và nhân viên bảo hiểm xã hội tại địa phương: Nắm bắt các khó khăn, rào cản trong việc triển khai BHYT, từ đó cải thiện công tác tuyên truyền và phục vụ người dân.
Các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân tộc thiểu số: Sử dụng kết quả nghiên cứu để hỗ trợ vận động, nâng cao nhận thức và thúc đẩy quyền lợi về BHYT cho người DTTS.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao tỷ lệ tham gia BHYT của người dân tộc thiểu số tại Đăk Xú lại thấp?
Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập thấp, trình độ học vấn hạn chế và thay đổi chính sách hỗ trợ BHYT miễn phí từ năm 2017 khiến nhiều người không đủ khả năng mua BHYT.Yếu tố nào ảnh hưởng mạnh nhất đến việc tham gia BHYT của người DTTS?
Thu nhập hộ gia đình và trình độ học vấn là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất, với nhóm thu nhập trên 1 triệu đồng và trình độ THPT trở lên có tỷ lệ tham gia BHYT cao hơn đáng kể.Người dân có ý định tham gia BHYT trong tương lai không?
Tỷ lệ dự định tham gia BHYT rất cao, khoảng 90,5%, cho thấy người dân nhận thức được lợi ích của BHYT và mong muốn được tham gia khi có điều kiện.Các rào cản nào khiến người DTTS không tham gia BHYT?
Ngoài lý do kinh tế, còn có rào cản về thủ tục hành chính phức tạp, thiếu thông tin truyền thông, khoảng cách địa lý và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng kỳ vọng.Làm thế nào để nâng cao tỷ lệ tham gia BHYT cho người DTTS?
Cần có chính sách hỗ trợ tài chính, tăng cường truyền thông, cải thiện thủ tục và dịch vụ BHYT, đồng thời phát triển mạng lưới cung cấp BHYT tại địa phương để người dân dễ dàng tiếp cận.
Kết luận
- Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tại xã Đăk Xú tham gia BHYT năm 2018 chỉ đạt 32,1%, thấp hơn nhiều so với mức bao phủ toàn quốc.
- Thu nhập, trình độ học vấn và nghề nghiệp là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT của người DTTS.
- Lý do chủ yếu không tham gia BHYT là do không có tiền mua, trong khi tỷ lệ dự định tham gia BHYT rất cao (90,5%).
- Cần có các giải pháp đồng bộ về chính sách hỗ trợ tài chính, truyền thông, cải thiện dịch vụ và thủ tục để nâng cao tỷ lệ bao phủ BHYT.
- Nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan quản lý và tổ chức liên quan trong việc xây dựng chính sách BHYT phù hợp với đặc thù vùng DTTS.
Hành động tiếp theo: Các cơ quan chức năng cần triển khai ngay các khuyến nghị nhằm tăng cường bao phủ BHYT cho người DTTS tại Đăk Xú, góp phần thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.