Tổng quan nghiên cứu
Sức khỏe sinh sản là một trong những khía cạnh thiết yếu của cuộc sống con người, đặc biệt đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản từ 18 đến 49 tuổi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, phụ nữ chiếm tới 33% gánh nặng bệnh tật liên quan đến sức khỏe sinh sản, cao hơn nhiều so với nam giới (12%). Trên toàn cầu, hàng năm có khoảng 340 triệu phụ nữ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, 20 triệu người mắc bệnh phụ khoa, 60 – 80 triệu người vô sinh, và khoảng 830 phụ nữ tử vong mỗi ngày do biến chứng thai nghén và sinh đẻ. Tại Việt Nam, mặc dù các chỉ số sức khỏe sinh sản có cải thiện, nhưng tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới (VNĐSDD) và các bệnh lý phụ khoa vẫn còn cao, đặc biệt ở vùng nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỉnh Bình Định, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với sự phát triển công nghiệp và du lịch, thu hút nhiều lao động nữ, tiềm ẩn nguy cơ lây lan các bệnh phụ khoa và viêm nhiễm sinh dục. Nghiên cứu này nhằm khảo sát thực trạng sức khỏe sinh sản của phụ nữ từ 18 – 49 tuổi đến khám tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Định trong giai đoạn 2016 – 2017, đồng thời xác định các yếu tố liên quan đến viêm nhiễm đường sinh dục dưới. Mục tiêu cụ thể là đánh giá các chỉ số sinh sản, tỷ lệ mắc các bệnh phụ khoa, mức độ sử dụng các biện pháp can thiệp và các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến VNĐSDD.
Phạm vi nghiên cứu tập trung tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Định, với thời gian thu thập dữ liệu từ tháng 9/2016 đến tháng 5/2017. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chính sách và giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, góp phần cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống của phụ nữ trong tỉnh.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình về sức khỏe sinh sản, trong đó có:
- Định nghĩa sức khỏe sinh sản theo Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển năm 1994 tại Cairo, nhấn mạnh sức khỏe sinh sản không chỉ là trạng thái không bệnh tật mà còn là sự thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội trong các chức năng sinh sản.
- Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản, bao gồm trình độ học vấn, vị trí xã hội, điều kiện kinh tế và dịch vụ y tế.
- Khái niệm viêm nhiễm đường sinh dục dưới (VNĐSDD) do Hiệp hội sức khỏe phụ nữ thế giới đề xuất, bao gồm các nhóm bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, nhiễm khuẩn nội sinh và nhiễm khuẩn do các yếu tố ngoại sinh.
- Các yếu tố sinh lý bệnh của VNĐSDD, gồm vật chủ (cơ quan sinh dục nữ), tác nhân vi sinh (vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng) và các yếu tố lan truyền (quan hệ tình dục, thủ thuật y tế, điều kiện sống).
Các khái niệm chính được sử dụng trong nghiên cứu gồm: tuổi kết hôn, số lần có thai, số con hiện tại, tỷ lệ VNĐSDD, các bệnh lý phụ khoa phổ biến (u xơ tử cung, u nang buồng trứng, viêm vú, ung thư cổ tử cung và ung thư vú), các biện pháp tránh thai, nạo phá thai, khám phụ khoa định kỳ và các yếu tố hành vi, điều kiện sống liên quan đến VNĐSDD.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang, tiến hành tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Định trong 9 tháng (09/2016 – 05/2017). Cỡ mẫu được tính toán dựa trên tỷ lệ VNĐSDD ước lượng khoảng 82,9%, với sai số tương đối 5%, cho ra cỡ mẫu tối thiểu 320 phụ nữ. Phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống từ tổng số khoảng 4.500 phụ nữ đến khám trong thời gian nghiên cứu, với khoảng cách mẫu k=14.
Tiêu chí chọn mẫu bao gồm phụ nữ từ 18 – 49 tuổi đã có chồng hoặc đã quan hệ tình dục, sinh sống tại Bình Định và đồng ý tham gia. Tiêu chí loại trừ gồm phụ nữ đang trong chu kỳ kinh nguyệt, sử dụng thuốc kháng sinh hoặc thuốc đặt âm đạo trong 2 tuần trước, thụt rửa âm đạo trong 3 ngày trước, đã cắt tử cung hoàn toàn, mắc bệnh tâm thần, khám lại hoặc không đồng ý tham gia.
Dữ liệu được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp, khám phụ khoa bởi bác sĩ chuyên khoa và xét nghiệm cận lâm sàng (xét nghiệm dịch âm đạo, siêu âm phần phụ). Các biến số nghiên cứu bao gồm biến nền (tuổi, dân tộc, khu vực sống, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân), biến về đặc điểm sinh sản, bệnh phụ khoa, biện pháp can thiệp và các yếu tố liên quan đến VNĐSDD.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Epidata 3 và phân tích thống kê với phần mềm STATA 10.0. Các kết quả được trình bày dưới dạng tần số, tỷ lệ phần trăm, khoảng tin cậy 95%, và tỷ số tỷ lệ hiện mắc (PR) để đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Đặc điểm sinh sản của phụ nữ: Tuổi kết hôn trung bình dao động trong khoảng 20 – 25 tuổi, tuổi sinh con đầu lòng phổ biến từ 20 – 35 tuổi. Số lần có thai trung bình khoảng 1,8 – 3,1 lần, số con hiện tại trung bình từ 1,6 đến 2,7 con. Khoảng cách sinh phổ biến là trên 36 tháng.
Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới (VNĐSDD): Tỷ lệ VNĐSDD tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Định năm 2016 – 2017 dao động trong khoảng 20 – 85% theo các nghiên cứu trước đây, với tỷ lệ cao hơn ở các cơ sở y tế so với cộng đồng. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ VNĐSDD được xác định khoảng 60 – 80%, với vị trí viêm nhiễm chủ yếu ở âm đạo (20 – 70%) và cổ tử cung (25 – 50%). Tác nhân gây bệnh phổ biến nhất là vi khuẩn (60 – 85%), nấm Candida (10 – 70%) và Trichomonas (1 – 25%).
Các bệnh lý phụ khoa khác: Tỷ lệ rối loạn kinh nguyệt khoảng 12 – 30%, đau khi hành kinh khoảng 16 – 18%. Tỷ lệ u xơ tử cung và u nang buồng trứng lần lượt là 0,5 – 3,6% và 0,7 – 16,8%. Tỷ lệ vô sinh dao động khoảng 8%.
Biện pháp can thiệp và chăm sóc sức khỏe sinh sản: Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai chiếm khoảng 60 – 90%, phổ biến nhất là đặt dụng cụ tử cung (20 – 60%) và bao cao su (15 – 40%). Tỷ lệ nạo phá thai dao động từ 30 – 75%, trong đó có đến 52,7% phụ nữ nạo thai ít nhất hai lần. Tỷ lệ khám thai ít nhất 3 lần trong thai kỳ chiếm 40 – 60%. Tỷ lệ tiêm phòng uốn ván ít nhất 2 lần là 61,8%. Tỷ lệ khám phụ khoa định kỳ dao động từ 14,8% đến 79,2%.
Yếu tố liên quan đến VNĐSDD: Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê gồm: tuổi (tỷ lệ cao nhất ở nhóm 25 – 29 tuổi), trình độ học vấn (tỷ lệ nghịch với học vấn), nghề nghiệp (nông nghiệp có tỷ lệ cao hơn), tình trạng hôn nhân (phụ nữ không có chồng có tỷ lệ cao hơn), số con hiện có (tỷ lệ tăng theo số con), nạo phá thai, biện pháp tránh thai (dụng cụ tử cung có nguy cơ cao nhất), rối loạn kinh nguyệt, khám phụ khoa định kỳ, tiền sử VNĐSDD, thói quen vệ sinh bộ phận sinh dục, nguồn nước sử dụng, nhà vệ sinh khép kín, sinh hoạt gia đình và tiếp nhận thông tin về VNĐSDD.
Thảo luận kết quả
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ VNĐSDD ở phụ nữ đến khám tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Định là khá cao, tương đồng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế. Việc tỷ lệ VNĐSDD cao hơn ở các cơ sở y tế so với cộng đồng có thể do phụ nữ có triệu chứng hoặc nghi ngờ bệnh mới đến khám, dẫn đến sự tập trung bệnh nhân có nguy cơ cao.
Các yếu tố như trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp nông nghiệp, số con nhiều, và thói quen vệ sinh kém được xác định là những yếu tố nguy cơ quan trọng, phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Điều này phản ánh ảnh hưởng của điều kiện kinh tế xã hội và nhận thức về sức khỏe sinh sản đến tình trạng bệnh lý phụ khoa.
Việc sử dụng biện pháp tránh thai bằng dụng cụ tử cung làm tăng nguy cơ VNĐSDD cũng được nhiều nghiên cứu xác nhận, do dụng cụ tử cung có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển. Tỷ lệ nạo phá thai cao cũng góp phần làm tăng nguy cơ viêm nhiễm do thủ thuật không an toàn.
Kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức, cải thiện điều kiện vệ sinh cá nhân và môi trường sống, đồng thời tăng cường dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt là khám phụ khoa định kỳ và tư vấn biện pháp tránh thai an toàn.
Dữ liệu có thể được trình bày qua các biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ VNĐSDD theo nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp; bảng phân tích mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và tỷ lệ VNĐSDD với giá trị PR và khoảng tin cậy 95%.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ về các bệnh lý phụ khoa, đặc biệt là viêm nhiễm đường sinh dục dưới, các biện pháp phòng tránh và tầm quan trọng của khám phụ khoa định kỳ. Thời gian thực hiện: 6 – 12 tháng; chủ thể: Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, các cơ sở y tế địa phương.
Phát triển và mở rộng dịch vụ khám phụ khoa định kỳ với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y bác sĩ chuyên môn cao, đảm bảo tiếp cận dễ dàng cho phụ nữ ở cả vùng nông thôn và thành thị. Thời gian: 1 – 2 năm; chủ thể: Sở Y tế tỉnh Bình Định, Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Khuyến khích sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn, giảm thiểu sử dụng dụng cụ tử cung không đúng cách và tăng cường tư vấn lựa chọn biện pháp phù hợp với từng đối tượng. Thời gian: liên tục; chủ thể: cán bộ y tế, nhân viên tư vấn kế hoạch hóa gia đình.
Cải thiện điều kiện vệ sinh cá nhân và môi trường sống, bao gồm cung cấp nguồn nước sạch, nhà vệ sinh khép kín và hướng dẫn vệ sinh bộ phận sinh dục đúng cách. Thời gian: 1 – 3 năm; chủ thể: chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội.
Tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ y tế về chẩn đoán và điều trị các bệnh phụ khoa, đặc biệt là viêm nhiễm đường sinh dục dưới. Thời gian: 6 tháng – 1 năm; chủ thể: Sở Y tế, Trường Đại học Quy Nhơn.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cán bộ y tế và nhân viên chăm sóc sức khỏe sinh sản: Nghiên cứu cung cấp dữ liệu thực tiễn về tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến VNĐSDD, giúp cải thiện chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và tư vấn sức khỏe sinh sản.
Nhà hoạch định chính sách y tế: Thông tin về thực trạng sức khỏe sinh sản và các yếu tố nguy cơ giúp xây dựng các chương trình can thiệp phù hợp, nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Các nhà nghiên cứu và học viên cao học trong lĩnh vực sinh học thực nghiệm, y học và sức khỏe cộng đồng: Luận văn cung cấp cơ sở lý thuyết, phương pháp nghiên cứu và dữ liệu thực nghiệm quý giá để tham khảo và phát triển các nghiên cứu tiếp theo.
Tổ chức phi chính phủ và các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản: Kết quả nghiên cứu giúp định hướng các hoạt động truyền thông, giáo dục và hỗ trợ cộng đồng nhằm giảm thiểu các bệnh lý phụ khoa và nâng cao sức khỏe phụ nữ.
Câu hỏi thường gặp
Viêm nhiễm đường sinh dục dưới là gì và tại sao nó quan trọng?
Viêm nhiễm đường sinh dục dưới (VNĐSDD) là tình trạng viêm nhiễm từ âm hộ đến cổ tử cung dưới, do nhiều tác nhân vi sinh như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng gây ra. VNĐSDD ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản, có thể dẫn đến vô sinh, thai ngoài tử cung và ung thư cổ tử cung nếu không được điều trị kịp thời.Tỷ lệ VNĐSDD ở phụ nữ Bình Định như thế nào?
Tỷ lệ VNĐSDD ở phụ nữ đến khám tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Định trong giai đoạn 2016 – 2017 dao động khoảng 60 – 80%, tương đương với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, cho thấy đây là vấn đề sức khỏe