Tổng quan nghiên cứu

Quan hệ tình dục trước hôn nhân (QHTDTHN) đang trở thành xu hướng ngày càng phổ biến trong giới trẻ, đặc biệt là sinh viên đại học – nhóm đối tượng có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Tại Việt Nam, theo ước tính, tỉ lệ QHTDTHN ở sinh viên dao động khoảng 20%, trong đó nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới. Thực trạng này kéo theo nhiều hệ lụy như mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai và gia tăng các bệnh lây truyền qua đường tình dục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản và tương lai của giới trẻ. Nghiên cứu được thực hiện tại Đại học Tây Nguyên – nơi có sinh viên thuộc 41/54 dân tộc Việt Nam, nhằm đánh giá thực trạng QHTDTHN, kiến thức, thái độ và hành vi sử dụng một số biện pháp tránh thai (BPTT) của sinh viên trong năm 2014.

Mục tiêu nghiên cứu gồm: xác định tỉ lệ QHTDTHN; mô tả kiến thức, thái độ, hành vi sử dụng BPTT; và phân tích các yếu tố liên quan đến hành vi QHTDTHN cũng như kiến thức, thái độ và hành vi sử dụng BPTT. Nghiên cứu có phạm vi từ tháng 01 đến tháng 06 năm 2014, tại trường Đại học Tây Nguyên, với 483 sinh viên năm thứ nhất đến năm thứ ba tham gia. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản, nâng cao nhận thức và hành vi tình dục an toàn cho sinh viên, góp phần giảm thiểu các rủi ro sức khỏe và xã hội liên quan đến QHTDTHN.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết về mối quan hệ giữa kiến thức, thái độ và hành vi (KT-TĐ-HV) trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản. Ba khái niệm chính được sử dụng gồm:

  • Kiến thức: Hiểu biết về các biện pháp tránh thai, cách sử dụng và tác dụng của chúng, được tích lũy qua học tập và kinh nghiệm.
  • Thái độ: Quan điểm tích cực hoặc tiêu cực đối với việc sử dụng BPTT, ảnh hưởng bởi kiến thức, niềm tin và môi trường xã hội.
  • Hành vi: Thực hành sử dụng các biện pháp tránh thai trong quan hệ tình dục, phản ánh sự áp dụng kiến thức và thái độ vào thực tế.

Ngoài ra, mô hình nghiên cứu còn xem xét các yếu tố cá nhân và xã hội như tuổi, giới tính, niên khóa, khoa học, tình trạng hôn nhân, và mối quan hệ bạn tình ảnh hưởng đến KT-TĐ-HV về BPTT.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang với phân tích định lượng. Đối tượng là 483 sinh viên hệ chính quy năm thứ nhất đến năm thứ ba tại Đại học Tây Nguyên, được chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống từ danh sách lớp học. Tiêu chuẩn lựa chọn bao gồm sinh viên chưa kết hôn, có mặt trong lớp học và đồng ý tham gia.

Dữ liệu được thu thập bằng bảng câu hỏi tự điền, đã được thử nghiệm và chỉnh sửa, đảm bảo tính bảo mật và khách quan. Các biến số nghiên cứu gồm đặc điểm cá nhân, hành vi QHTDTHN, kiến thức, thái độ và hành vi sử dụng ba biện pháp tránh thai chính: bao cao su, vỉ thuốc tránh thai phối hợp và thuốc tránh thai khẩn cấp.

Số liệu được mã hóa, nhập và phân tích bằng phần mềm Stata 12. Phân tích bao gồm thống kê mô tả, phân tích đơn biến và đa biến với hồi quy logistic để xác định các yếu tố liên quan. Nghiên cứu tuân thủ các quy định đạo đức, đảm bảo sự đồng thuận và bảo mật thông tin đối tượng.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỉ lệ quan hệ tình dục trước hôn nhân: 20,3% sinh viên đã từng QHTDTHN, trong đó nam chiếm 39,9%, nữ chiếm 12,1%. Sinh viên trên 20 tuổi có tỉ lệ QHTDTHN cao gấp 2,9 lần so với nhóm ≤ 20 tuổi (p<0,001). Sinh viên có người yêu hoặc sống chung chưa đăng ký có tỉ lệ QHTDTHN cao gấp 7,2 lần so với nhóm chưa có người yêu (p<0,001).

  2. Kiến thức về biện pháp tránh thai: Tỉ lệ sinh viên biết về bao cao su, vỉ thuốc tránh thai phối hợp và thuốc tránh thai khẩn cấp lần lượt là 99,2%, 74,1% và 76%. Tuy nhiên, kiến thức đúng về ba biện pháp này rất thấp: bao cao su 25,3%, vỉ thuốc tránh thai phối hợp 9,5%, thuốc tránh thai khẩn cấp 2,9%. Sinh viên trên 20 tuổi có kiến thức đúng về ít nhất một trong ba BPTT cao hơn nhóm trẻ hơn (OR=1,59, p<0,05).

  3. Thái độ về biện pháp tránh thai: Thái độ đúng chung về bao cao su đạt 43,5%, vỉ thuốc tránh thai phối hợp 12,6%, thuốc tránh thai khẩn cấp 33,1%. Sinh viên khoa Y Dược có thái độ đúng về BPTT cao gấp 2,63 lần so với khoa khác (p<0,001). Sinh viên đã từng QHTD có thái độ đúng cao gấp 2,43 lần so với chưa từng QHTD (p<0,05).

  4. Hành vi sử dụng biện pháp tránh thai: Trong lần QHTD đầu tiên, 38,8% sinh viên sử dụng bao cao su, 14,3% dùng thuốc tránh thai khẩn cấp, 13,3% áp dụng xuất tinh ngoài âm đạo, và 30,6% không sử dụng biện pháp tránh thai nào. Sinh viên nữ có hành vi sử dụng BPTT trong lần QHTD đầu tiên cao gấp 2,75 lần nam (p<0,05). Tỉ lệ sinh viên có ý định sử dụng bao cao su trong tương lai là 88,8%, vỉ thuốc tránh thai phối hợp 40,2%, thuốc tránh thai khẩn cấp 38,3%.

Thảo luận kết quả

Tỉ lệ QHTDTHN ở sinh viên Đại học Tây Nguyên tương đối cao, phù hợp với xu hướng mở rộng quan hệ tình dục trước hôn nhân trong giới trẻ hiện nay. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, cho thấy sự gia tăng của hành vi tình dục không an toàn trong nhóm sinh viên.

Kiến thức và thái độ về BPTT còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về vỉ thuốc tránh thai phối hợp và thuốc tránh thai khẩn cấp, điều này làm giảm hiệu quả sử dụng và tăng nguy cơ mang thai ngoài ý muốn. Nguyên nhân có thể do thiếu thông tin chính xác, e ngại khi tiếp cận dịch vụ và truyền thông chưa phù hợp với đặc điểm sinh viên đa dân tộc tại Tây Nguyên.

Hành vi sử dụng BPTT chưa đồng đều, với tỉ lệ không sử dụng biện pháp tránh thai trong lần QHTD đầu tiên còn cao (30,6%), chủ yếu do quan hệ tình dục diễn ra bất ngờ và thiếu chuẩn bị. Lý do không sử dụng BPTT còn bao gồm ngại ngùng khi mua dụng cụ, thiếu hiểu biết và lo ngại tác dụng phụ.

Phân tích đa biến cho thấy các yếu tố như tuổi, giới tính, tình trạng có người yêu và thái độ đúng về BPTT có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi QHTDTHN và sử dụng BPTT. Kết quả này nhấn mạnh vai trò của giáo dục giới tính toàn diện và truyền thông phù hợp nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của sinh viên.

Dữ liệu có thể được trình bày qua các biểu đồ cột thể hiện tỉ lệ QHTDTHN theo nhóm tuổi và giới tính, biểu đồ tròn về kiến thức đúng từng biện pháp tránh thai, cũng như bảng phân tích hồi quy logistic các yếu tố liên quan.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường giáo dục sức khỏe sinh sản và giới tính toàn diện: Triển khai các chương trình đào tạo kiến thức về BPTT, tập trung vào nhóm sinh viên năm nhất và các khoa ngoài Y Dược, nhằm nâng cao kiến thức và thái độ đúng về BPTT trong vòng 1 năm tới. Chủ thể thực hiện là Ban Giám hiệu, khoa Y tế công cộng và các khoa liên quan.

  2. Đa dạng hóa hình thức truyền thông và tư vấn: Sử dụng mạng xã hội, hội thảo, tư vấn trực tiếp và các hoạt động ngoại khóa để tiếp cận sinh viên, giảm bớt sự e ngại khi tiếp cận thông tin và dịch vụ tránh thai. Thời gian thực hiện trong 6 tháng, do Hội Sinh viên và Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản phối hợp thực hiện.

  3. Phát triển dịch vụ cung cấp BPTT thân thiện, dễ tiếp cận: Thiết lập các điểm cung cấp BPTT tại trường học với giá cả hợp lý, bảo mật và thuận tiện, nhằm khuyến khích sinh viên sử dụng biện pháp tránh thai an toàn. Thời gian triển khai trong 1 năm, do phòng Công tác sinh viên và Trung tâm CSSKSS thực hiện.

  4. Nâng cao năng lực cán bộ tư vấn và giảng viên: Tổ chức tập huấn về kỹ năng truyền thông, tư vấn và cập nhật kiến thức về BPTT cho cán bộ y tế và giảng viên trong trường, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác và phù hợp. Thời gian thực hiện trong 6 tháng, do Ban Giám hiệu và phòng Đào tạo phối hợp tổ chức.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Nhà quản lý giáo dục và y tế công cộng: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng chính sách, chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản phù hợp với đặc điểm sinh viên đa dân tộc và vùng Tây Nguyên.

  2. Giảng viên và cán bộ tư vấn sức khỏe sinh sản: Áp dụng kiến thức và số liệu thực tiễn để thiết kế các bài giảng, tư vấn và hoạt động truyền thông hiệu quả, nâng cao nhận thức và hành vi của sinh viên.

  3. Sinh viên và thanh niên: Tự trang bị kiến thức, điều chỉnh thái độ và hành vi tình dục an toàn, giảm thiểu các rủi ro sức khỏe liên quan đến QHTDTHN và mang thai ngoài ý muốn.

  4. Nhà nghiên cứu và sinh viên cao học: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, số liệu và phân tích để phát triển các đề tài nghiên cứu tiếp theo về sức khỏe sinh sản, hành vi tình dục và giáo dục giới tính trong nhóm thanh niên.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tỉ lệ quan hệ tình dục trước hôn nhân ở sinh viên Đại học Tây Nguyên là bao nhiêu?
    Tỉ lệ là khoảng 20,3%, trong đó nam giới chiếm 39,9% và nữ giới chiếm 12,1%. Đây là mức tương đối cao so với các vùng khác, phản ánh xu hướng mở rộng quan hệ tình dục trước hôn nhân trong giới trẻ hiện nay.

  2. Kiến thức của sinh viên về các biện pháp tránh thai như thế nào?
    Mặc dù phần lớn sinh viên biết đến các biện pháp như bao cao su (99,2%), vỉ thuốc tránh thai phối hợp (74,1%) và thuốc tránh thai khẩn cấp (76%), nhưng kiến thức đúng về cách sử dụng và tác dụng của các biện pháp này rất thấp, chỉ khoảng 25,3% đối với bao cao su và thấp hơn nhiều với các biện pháp khác.

  3. Tại sao nhiều sinh viên không sử dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ đầu tiên?
    Nguyên nhân chính là quan hệ tình dục diễn ra bất ngờ (79,4%), không chuẩn bị sẵn phương tiện tránh thai (35,3%), cảm giác xấu hổ khi mua dụng cụ (38,2%) và lo ngại tác dụng phụ hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe.

  4. Thái độ của sinh viên về việc sử dụng biện pháp tránh thai ra sao?
    Thái độ đúng về bao cao su đạt 43,5%, thuốc tránh thai khẩn cấp 33,1%, và vỉ thuốc tránh thai phối hợp chỉ 12,6%. Sinh viên khoa Y Dược và những người đã từng quan hệ tình dục có thái độ tích cực hơn so với các nhóm khác.

  5. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân và sử dụng biện pháp tránh thai?
    Tuổi trên 20, giới tính nam, có người yêu hoặc sống chung chưa đăng ký, và thái độ đúng về biện pháp tránh thai là những yếu tố làm tăng khả năng QHTDTHN và sử dụng BPTT. Sinh viên nữ và sinh viên năm thứ hai, ba có xu hướng sử dụng BPTT trong lần quan hệ đầu tiên cao hơn.

Kết luận

  • Tỉ lệ quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên Đại học Tây Nguyên năm 2014 là 20,3%, với nam giới và nhóm trên 20 tuổi có tỉ lệ cao hơn đáng kể.
  • Kiến thức đúng về các biện pháp tránh thai phổ biến như bao cao su, vỉ thuốc tránh thai phối hợp và thuốc tránh thai khẩn cấp còn rất hạn chế, dưới 30%.
  • Thái độ tích cực về sử dụng biện pháp tránh thai chưa phổ biến, đặc biệt là đối với vỉ thuốc tránh thai phối hợp và thuốc tránh thai khẩn cấp.
  • Hành vi sử dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ đầu tiên còn thấp, với 30,6% sinh viên không sử dụng biện pháp nào.
  • Các yếu tố cá nhân và xã hội như tuổi, giới tính, tình trạng có người yêu và thái độ đúng về BPTT ảnh hưởng rõ rệt đến hành vi QHTDTHN và sử dụng biện pháp tránh thai.

Next steps: Triển khai các chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản toàn diện, đa dạng hóa hình thức truyền thông và nâng cao dịch vụ cung cấp biện pháp tránh thai thân thiện với sinh viên.

Call to action: Các nhà quản lý, giảng viên và cán bộ y tế cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng môi trường học tập và sinh hoạt an toàn, lành mạnh, giúp sinh viên nâng cao nhận thức và thực hành tình dục an toàn, góp phần phát triển bền vững nguồn nhân lực trẻ cho đất nước.