I. Tổng Quan Phân Công Lao Động Gia Đình Nùng Lạng Sơn
Phân công lao động thể hiện vai trò, sự đóng góp và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong gia đình. Bên cạnh đó, phân công lao động cũng ảnh hưởng tới các mặt đời sống của gia đình. Trong bất kỳ gia đình nào thì cũng cần có sự phân công lao động, vì nó giúp cho cuộc sống gia đình diễn ra tốt đẹp hơn khi các thành viên cùng tham gia đóng góp, san sẻ các công việc gia đình với nhau, từ đó tạo ra sự liên kết gắn bó bền chặt giữa các thành viên. Trong xã hội truyền thống, các chuẩn mực xã hội và những lễ giáo phong kiến khiến cho người phụ nữ luôn bị ràng buộc trong gia đình, rơi vào địa vị phụ thuộc. Quan niệm trọng nam khinh nữ và tư tưởng coi thường phụ nữ vẫn còn đang tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và là những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc trong cuộc sống gia đình của người phụ nữ (Nguyễn Thị Thoa, 2015).
1.1. Vai Trò Của Phân Công Lao Động Trong Gia Đình Nùng
Phân công lao động không chỉ là sự chia sẻ công việc mà còn là yếu tố then chốt tạo nên sự gắn kết và ổn định trong gia đình. Nó phản ánh sự phân bổ trách nhiệm và quyền hạn giữa các thành viên, đặc biệt là giữa vợ và chồng. Sự cân bằng trong phân công lao động giúp giảm tải áp lực cho một cá nhân, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi người phát huy tối đa khả năng của mình. Nghiên cứu về phân công lao động gia đình Nùng tại xã Quốc Khánh, Lạng Sơn sẽ làm sáng tỏ những đặc điểm văn hóa và kinh tế ảnh hưởng đến sự phân công này.
1.2. Ảnh Hưởng Của Văn Hóa Truyền Thống Đến Phân Công Lao Động
Văn hóa truyền thống có ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức phân công lao động trong gia đình. Các quan niệm về vai trò giới, trách nhiệm của từng thành viên được truyền lại qua nhiều thế hệ, định hình nên những khuôn mẫu nhất định. Tuy nhiên, sự thay đổi của xã hội, sự tiếp cận với các giá trị mới cũng đang dần làm thay đổi những khuôn mẫu này. Nghiên cứu cần xem xét sự giao thoa giữa phân công lao động truyền thống và phân công lao động hiện đại trong gia đình dân tộc Nùng.
II. Thách Thức Bình Đẳng Giới Trong Phân Công Lao Động Nùng
Có thể thấy rằng chính sự khác biệt biệt về vai trò giữa nam và nữ đã tạo nên sự khác biệt trong phân công lao động giữa nam và nữ trong gia đình. Nam giới chủ yếu đảm nhân các công việc liên quan đến phát triển kinh tế gia đình, những việc nặng nhọc hơn đòi hỏi phải có sức khỏe và sự nhanh nhẹn. Đó là những công việc liên quan đến sản xuất và hoạt động cộng đồng…Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò quan trọng của nữ giới, họ tham gia tích cực vào công việc sản xuất, đồng thời người phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng trong công việc tái sản xuất và cộng đồng (Nguyễn Thị Hoàng Anh, 2019).
2.1. Gánh Nặng Kép Của Phụ Nữ Dân Tộc Nùng Sản Xuất và Tái Sản Xuất
Phụ nữ trong gia đình dân tộc Nùng thường phải đối mặt với gánh nặng kép: vừa tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp để tạo thu nhập, vừa đảm nhận các công việc tái sản xuất như nội trợ, chăm sóc con cái. Điều này có thể dẫn đến tình trạng quá tải, ảnh hưởng đến sức khỏe và cơ hội phát triển của phụ nữ. Cần có những giải pháp để giảm bớt gánh nặng cho phụ nữ, tạo điều kiện để họ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội.
2.2. Quyền Quyết Định Của Phụ Nữ Trong Gia Đình Nùng Thực Trạng
Quyền quyết định trong gia đình là một yếu tố quan trọng thể hiện sự bình đẳng giới. Tuy nhiên, trong nhiều gia đình dân tộc Nùng, quyền quyết định vẫn tập trung chủ yếu vào người chồng, đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến kinh tế và xã hội. Nghiên cứu cần làm rõ thực trạng này, tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định của phụ nữ, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình.
2.3. Ảnh Hưởng Của Phân Công Lao Động Đến Kinh Tế Gia Đình Nùng
Phân công lao động hợp lý có thể giúp nâng cao hiệu quả kinh tế của gia đình. Khi mỗi thành viên được giao những công việc phù hợp với khả năng và sở thích, họ sẽ làm việc hiệu quả hơn, tạo ra nhiều giá trị hơn. Nghiên cứu cần phân tích mối quan hệ giữa phân công lao động và kinh tế hộ gia đình Nùng, từ đó đưa ra những khuyến nghị về cách thức phân công lao động hiệu quả.
III. Phương Pháp Nghiên Cứu Phân Công Lao Động Tại Quốc Khánh
Kinh tế trồng trọt của các tộc người thiểu số ở miền Bắc nước ta gồm hai loại hình chủ yếu: trồng trọt trên nương rẫy và gieo cấy trên đồng ruộng, hay nói cách khác là nương rẫy và ruộng nước. Đối với nương rẫy đó chính là nguồn sống chính của các tộc người cư trú ở vùng rẻo cao và rẻo giữa. Với loại hình ruộng nước gồm các tộc người sống ở vùng thấp, trong các cánh đồng, thung lũng miền 1 núi. Đối với cư dân nông nghiệp, để tồn tại và phát triển, họ đã có một bước tiến dài trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên để phát triển sản xuất, có những phát minh, cải tiến kỹ thuật về canh tác. Chẳng hạn như việc phát minh các công cụ sản xuất như chiếc cày bằng sắt. Bên cạnh đó, cùng với sức kéo của trâu, bò trong sản xuất; kỹ thuật phối kết hợp trong sản xuất nhằm đảm bảo sự thu hoạch tối đa của sản phẩm cây trồng trên những mảnh ruộng, làm tăng giá trị sử dụng và giá trị kinh tế của đất đai; kéo theo sự thay đổi cả quyền sở hữu ruộng đất và cơ cấu xã hội, lẫn hình thức tổ chức và loại hình làng bản (Nguyễn Thị Dân, 2018).
3.1. Thu Thập Dữ Liệu Khảo Sát và Phỏng Vấn Sâu Hộ Gia Đình Nùng
Nghiên cứu sử dụng kết hợp phương pháp định lượng và định tính để thu thập dữ liệu. Khảo sát bằng bảng hỏi được thực hiện trên 60 hộ gia đình để thu thập thông tin về phân công lao động, thu nhập, trình độ học vấn. Phỏng vấn sâu được thực hiện với 8 hộ gia đình để tìm hiểu sâu hơn về quan điểm, kinh nghiệm của các thành viên trong gia đình về vấn đề này. Việc kết hợp hai phương pháp giúp đảm bảo tính khách quan và toàn diện của nghiên cứu.
3.2. Phân Tích Dữ Liệu Đánh Giá Tác Động Đến Đời Sống Gia Đình
Dữ liệu thu thập được sẽ được phân tích bằng các phương pháp thống kê mô tả và phân tích nội dung. Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả các đặc điểm cơ bản của mẫu nghiên cứu. Phân tích nội dung được sử dụng để phân tích các thông tin thu thập được từ phỏng vấn sâu, từ đó rút ra những kết luận về phân công lao động và quyền quyết định trong gia đình dân tộc Nùng.
IV. Kết Quả Nghiên Cứu Phân Công Lao Động Trong Sản Xuất Lúa
Đồng bào Nùng lấy việc trồng lúa làm nguồn sống chính. Người Nùng rất thành thạo trong việc khai khẩn đất đai làm nương rẫy, làm ruộng bậc thang khai thác đất đồng bằng trồng lúa nước. Ngoài nguồn lương thực chính là gạo, người Nùng còn trồng các loại cây nông sản khác như ngô, khoai, hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm, trong đó có đặc biệt phải kể đến các loại cây có giá trị kinh tế cao như, hoa hồi, quế, mác ca, người Nùng cũng giỏi trong việc chăn nuôi, tạo ra những giống vật nuôi có giá trị cao. Vì vậy thông qua việc nghiên cứu đề tài “phân công lao động trong hộ gia đình dân tộc Nùng” (nghiên cứu trường hợp tại xã Quốc Khánh huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn) nhằm tìm hiểu sự phân công các công việc trong gia đình và quyền quyết định của hộ gia đình dân tộc Nùng như thế nào? Việc phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt động cộng đồng của hộ gia đình dân tộc Nùng ra sao? 2
4.1. Vai Trò Của Vợ và Chồng Trong Trồng Lúa San Sẻ Công Việc
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phân công lao động trong gia đình dân tộc Nùng qua hoạt động sản xuất đều có sự tham gia của cả vợ và chồng, đã có sự san sẻ giữa hai giới với nhau trong những công việc đồng áng cụ thể là trồng lúa và trồng hoa hồi của dân tộc Nùng tại địa bàn xã. Tuy nhiên theo điều tra thì những công việc nặng nhọc, đòi hỏi sức khỏe, kĩ thuật đều do người chồng thực hiện chính, người vợ chỉ thực hiện chính những công việc nhẹ nhàng và mang tính khéo léo.
4.2. Quyền Quyết Định Trong Sản Xuất Lúa Ai Nắm Vai Trò Chính
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, mặc dù có sự tham gia của cả vợ và chồng trong hoạt động sản xuất lúa, nhưng quyền quyết định chính vẫn thuộc về người chồng. Các quyết định quan trọng như lựa chọn giống lúa, thời điểm gieo cấy, sử dụng phân bón thường do người chồng đưa ra. Điều này phản ánh sự bất bình đẳng giới trong phân công lao động và quyền quyết định trong gia đình dân tộc Nùng.
V. Phân Công Lao Động Trong Tái Sản Xuất Vai Trò Của Người Vợ
Tại sao trong các gia đình dân tộc thiểu số ở nông thôn miền núi, người phụ nữ dân tộc vẫn chịu ảnh hưởng của tính chất bảo thủ của phân công lao động truyền thống. Họ thường phải lao động với cường độ lớn, thời gian làm việc kéo dài khả năng ra quyết định của họ nhìn chung thấp hơn nhiều so với nam giới. Việc phải sinh con và số lượng con cái trong gia đình cũng ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động giữa vợ và chồng (Nguyễn Lệ Thu, 2017).
5.1. Nội Trợ Chăm Sóc Con Cái Trách Nhiệm Chính Của Người Vợ
Trong hoạt động tái sản xuất, về sự phân công lao động thì những công việc liên quan đến nội trợ như đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa thì người vợ là người thực hiện chính, người chồng không tham gia vào những công việc này. Điều này cho thấy sự phân công lao động theo giới tính vẫn còn rất rõ rệt trong gia đình dân tộc Nùng. Cần có những giải pháp để khuyến khích người chồng tham gia nhiều hơn vào các công việc gia đình, chia sẻ gánh nặng với người vợ.
5.2. Giáo Dục Con Cái Sự Tham Gia Của Cả Vợ và Chồng
Mặc dù công việc nội trợ và chăm sóc con cái chủ yếu do người vợ đảm nhận, nhưng người chồng cũng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cái. Người chồng thường là người định hướng nghề nghiệp cho con cái, truyền đạt kinh nghiệm sống và các giá trị văn hóa truyền thống. Sự phối hợp giữa vợ và chồng trong việc giáo dục con cái giúp con cái phát triển toàn diện hơn.
VI. Hoạt Động Cộng Đồng Sự Thay Đổi Trong Phân Công Lao Động
Như vậy, quá trình phân công lao động hộ gia đình dân tộc Nùng tại xã Quốc Khánh huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn. Trong hoạt động sản xuất, tái sản xuất và hoạt động cộng đồng, người chồng vẫn là người đảm nhiệm chính các công việc cần đến sức khỏe, kĩ thuật và các công việc bên ngoài xã hội. Người vợ sẽ đảm nhận những công việc nhẹ nhàng hơn mang tính tỉ mỉ, khéo léo, những iii công việc trong gia đình. Mặc dù đã có sự thay đổi, đã có sự tham gia của cả vợ và chồng vào những công việc thường ngày nhưng cũng chỉ có một số gia đình là có sự tham gia của cả hai vợ chồng vào các công việc.
6.1. Tham Gia Các Hoạt Động Xã Hội Vợ Chồng Cùng San Sẻ
Trong hoạt động cộng đồng cũng đã có sự san sẻ nhau giữa vợ và chồng, không phải người chồng là người tham gia chính như thời xưa nữa thay vào đó người vợ cũng đã tham gia vào các hoạt động cộng đồng như công việc đám cưới, đám hỏi, ma chay, thăm hỏi họ hàng, hội nghị thôn xóm. Tuy nhiên có những công việc như giao tiếp với chính quyền địa phương thì người chồng là người tham gia và quyết định chính.
6.2. Giao Tiếp Với Chính Quyền Vai Trò Của Người Chồng
Tuy nhiên, trong các hoạt động liên quan đến giao tiếp với chính quyền địa phương, người chồng vẫn là người đại diện chính cho gia đình. Điều này có thể là do người chồng có trình độ học vấn cao hơn, có kinh nghiệm giao tiếp tốt hơn, hoặc do quan niệm truyền thống về vai trò của người đàn ông trong xã hội. Cần có những giải pháp để khuyến khích phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, nâng cao vị thế của họ trong cộng đồng.