Tổng quan nghiên cứu
Sốt dengue và sốt xuất huyết dengue (SD/SXHD) là bệnh truyền nhiễm do muỗi Aedes truyền, đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng tại khu vực Đông Nam Á và trên toàn cầu. Ước tính có khoảng 2,5 đến 3 tỷ người trên thế giới có nguy cơ nhiễm virus dengue, với hàng năm khoảng 50-100 triệu ca mắc và 500.000 ca SXHD phải nhập viện, trong đó 90% là trẻ em dưới 15 tuổi. Tỷ lệ tử vong trung bình khoảng 5%, có thể lên đến 10% trong các vụ dịch lớn. Tại Việt Nam, dịch SD/SXHD đã bùng phát mạnh mẽ, đặc biệt vụ dịch năm 1998 với hơn 234.000 ca mắc và 377 ca tử vong, trong đó tỉnh Hà Tây ghi nhận 5.227 ca mắc, huyện Chương Mỹ chiếm 54,9% số ca toàn tỉnh.
Xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây là vùng có nguy cơ cao do mật độ véc tơ truyền bệnh Aedes albopictus cao, điều kiện khí hậu và môi trường thuận lợi, cùng với kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) phòng chống bệnh của người dân còn hạn chế. Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn tháng 4 đến tháng 8 năm 2003 nhằm mô tả thực trạng quần thể véc tơ truyền bệnh SD/SXHD, đánh giá KAP của người dân và các yếu tố liên quan đến véc tơ tại xã Đại Yên. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp phòng chống chủ động, hiệu quả, góp phần giảm thiểu nguy cơ bùng phát dịch tại địa phương.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình dịch tễ học về bệnh truyền nhiễm do véc tơ truyền, tập trung vào:
- Chu kỳ truyền bệnh của virus dengue: Virus truyền từ người bệnh sang người lành qua vết đốt của muỗi cái Aedes aegypti và Aedes albopictus, với thời gian ủ bệnh trung bình 4-6 ngày.
- Mô hình giám sát véc tơ và bệnh nhân: Bao gồm giám sát thụ động và chủ động nhằm phát hiện sớm ca bệnh và biến động quần thể muỗi truyền bệnh.
- Khái niệm về chỉ số bọ gậy và muỗi: Chỉ số nhà có bọ gậy (HI), chỉ số vật chứa (CI), chỉ số Breteau (BI), chỉ số nhà có muỗi (CSNCM), chỉ số mật độ muỗi (CSMĐM) được sử dụng để đánh giá mật độ và phân bố véc tơ.
- Khái niệm về ổ bọ gậy nguồn: Dụng cụ chứa nước có số lượng lớn bọ gậy, là nguồn cung cấp muỗi trưởng thành chính trong khu vực.
- Khung KAP (Kiến thức, Thái độ, Thực hành): Đánh giá nhận thức và hành vi của cộng đồng về phòng chống SD/SXHD.
Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích.
- Đối tượng nghiên cứu: 185 hộ gia đình tại xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, được chọn ngẫu nhiên đơn từ danh sách toàn xã.
- Thời gian và địa điểm: Tháng 4 đến tháng 8 năm 2003, xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ.
- Thu thập dữ liệu:
- Phỏng vấn KAP người đại diện hộ gia đình (tuổi 16-65).
- Quan sát và điều tra dụng cụ chứa nước, dụng cụ phế thải, vệ sinh trong nhà và ngoại cảnh.
- Thu thập muỗi đậu nghỉ và bọ gậy trong các dụng cụ chứa nước.
- Phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm Epi-Info 6.04 và Excel để tính toán các chỉ số véc tơ, phân tích tần suất, tỷ lệ phần trăm và mối liên quan giữa các biến.
- Cỡ mẫu: 185 hộ gia đình, tính toán dựa trên tỷ lệ nhà có muỗi Aedes 34% với sai số 7%.
- Nhân lực thu thập: 8 nhóm điều tra viên gồm cán bộ côn trùng, y tế dự phòng và cán bộ trạm y tế xã, được tập huấn kỹ lưỡng.
- Định loài véc tơ: Tại phòng thí nghiệm côn trùng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
- Đánh giá KAP: Dựa trên bộ câu hỏi chuẩn, chấm điểm theo quy ước, phân loại kiến thức, thái độ và thực hành thành tốt, trung bình, kém.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Thành phần và mật độ véc tơ truyền bệnh:
- Tổng số 3.608 bọ gậy thu thập được, trong đó 89,8% là Aedes albopictus, không phát hiện Aedes aegypti.
- Chỉ số nhà có bọ gậy (HI) của Ae. albopictus là 32,4%, chỉ số vật chứa (CI) 14,2%, chỉ số Breteau (BI) 44, mật độ bọ gậy trung bình 17,5 con/nhà, đều ở mức cao.
- Chỉ số nhà có muỗi cái Ae. albopictus là 24,9%, mật độ muỗi 0,36 con/nhà.
- Ổ bọ gậy nguồn chủ yếu là dụng cụ phế thải (29,8% tỷ lệ nhiễm, chiếm 65,5% tỷ lệ tập trung bọ gậy), tiếp theo là cối đá, bể rượu, vò, máng súc vật.
- Trong 160 dụng cụ chứa nước lớn (>200 lít), chỉ 16,9% có cá hoặc Mesocyclops, tất cả các dụng cụ này không có bọ gậy, cho thấy hiệu quả của biện pháp sinh học.
Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân:
- 96,8% người dân đã từng nghe nói về bệnh SD/SXHD, chủ yếu qua ti vi (84,9%) và đài phát thanh xã (44,1%).
- 90,8% biết bệnh nguy hiểm và có thể phòng được; 78,9% biết bệnh do muỗi truyền; 64,9% biết triệu chứng bệnh.
- Tuy nhiên, chỉ 16,8% biết cách diệt bọ gậy, 48,6% biết cách phòng chống muỗi.
- Phân loại kiến thức chung: 23,2% tốt, 39,5% trung bình, 37,3% kém.
- Thái độ tích cực về phòng chống bệnh chiếm 84,3%.
- Thực hành phòng chống đạt chỉ 9,7%; vệ sinh trong nhà đạt 18,9%; vệ sinh ngoại cảnh đạt 47%.
- 75,1% hộ gia đình áp dụng ít nhất một biện pháp phòng chống véc tơ, nhưng chỉ 20,5% áp dụng đúng biện pháp nằm màn kể cả ban ngày.
- Các biện pháp phổ biến gồm nằm màn (75,1%), thau rửa bể nước (36,2%), phun thuốc diệt muỗi (23,2%), dùng nhang diệt muỗi (21,6%), phá huỷ dụng cụ phế thải (18,9%), thả cá (6,5%).
Hoạt động phòng chống tại địa phương:
- 98,8% hộ gia đình cho biết địa phương tổ chức tổng vệ sinh môi trường hàng tuần, nhưng chủ yếu làm sạch đường làng, chưa chú trọng thu gom dụng cụ phế thải.
- 39,3% nghe tuyên truyền qua đài phát thanh xã, nhưng tần suất phát sóng thấp.
- Chỉ 8,6% hộ được phun thuốc diệt muỗi trong năm qua, tập trung ở vùng giáp ranh xã có dịch.
- Không có hoạt động thả cá hoặc Mesocyclops, phát tờ rơi, treo áp phích hay tổ chức tuyên truyền trong trường học.
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy quần thể véc tơ truyền bệnh SD/SXHD tại xã Đại Yên chủ yếu là Aedes albopictus với mật độ cao, đặc biệt trong các dụng cụ phế thải, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và lan truyền dịch bệnh. Việc không phát hiện Aedes aegypti có thể do đặc điểm môi trường và thời điểm nghiên cứu. Tỷ lệ dụng cụ chứa nước lớn có cá hoặc Mesocyclops còn thấp, nhưng hiệu quả trong việc ngăn chặn bọ gậy đã được chứng minh qua việc không có bọ gậy trong các dụng cụ này.
Mặc dù người dân có nhận thức tương đối về bệnh, kiến thức chi tiết về sinh học véc tơ và biện pháp diệt bọ gậy còn hạn chế, dẫn đến thực hành phòng chống chưa hiệu quả. Tỷ lệ áp dụng đúng các biện pháp phòng chống thấp, đặc biệt là việc nằm màn đúng cách và phá huỷ dụng cụ phế thải. Hoạt động phòng chống véc tơ của địa phương chưa đồng bộ và thiếu các biện pháp sinh học, giáo dục cộng đồng sâu rộng.
So sánh với các nghiên cứu trong khu vực, tình trạng này phản ánh thực trạng chung của nhiều vùng nông thôn có nguy cơ cao, nơi mà sự tham gia cộng đồng và nguồn lực y tế còn hạn chế. Việc tập trung vào quản lý môi trường, nâng cao nhận thức và thực hành của người dân, cùng với áp dụng biện pháp sinh học như thả cá và Mesocyclops, sẽ góp phần giảm mật độ véc tơ và nguy cơ bùng phát dịch.
Dữ liệu có thể được trình bày qua các biểu đồ phân bố dụng cụ chứa nước, tỷ lệ bọ gậy trong từng loại dụng cụ, biểu đồ KAP của người dân, và bảng so sánh các chỉ số véc tơ theo từng thôn để minh họa rõ ràng hơn về phân bố véc tơ và mức độ nhận thức cộng đồng.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng
- Động viên người dân nâng cao kiến thức về sinh học véc tơ và biện pháp phòng chống SD/SXHD.
- Sử dụng đa dạng các kênh truyền thông như ti vi, đài phát thanh xã, tổ chức hội thảo, phát tờ rơi, treo áp phích tại các điểm công cộng.
- Thời gian: Triển khai liên tục, đặc biệt trước và trong mùa dịch.
- Chủ thể: Trung tâm Y tế dự phòng huyện, trạm y tế xã, các đoàn thể xã hội.
Phát triển và nhân rộng biện pháp sinh học diệt bọ gậy
- Thả cá và Mesocyclops vào các dụng cụ chứa nước lớn để kiểm soát bọ gậy hiệu quả, an toàn và bền vững.
- Tổ chức tập huấn kỹ thuật nhân nuôi và thả sinh vật diệt bọ gậy cho cán bộ y tế và cộng đồng.
- Thời gian: Triển khai trong vòng 6 tháng đầu năm, duy trì theo mùa.
- Chủ thể: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng.
Quản lý và loại bỏ dụng cụ phế thải chứa nước
- Tổ chức thu gom, phá huỷ hoặc chôn lấp dụng cụ phế thải quanh nhà để loại bỏ ổ bọ gậy nguồn chính.
- Huy động sự tham gia của cộng đồng trong các chiến dịch tổng vệ sinh môi trường hàng tuần, mở rộng phạm vi thu gom đến các dụng cụ phế thải.
- Thời gian: Thực hiện định kỳ hàng tuần, tăng cường trước mùa mưa.
- Chủ thể: UBND xã, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư.
Nâng cấp hệ thống cung cấp nước sạch và cải thiện vệ sinh môi trường
- Đảm bảo cung cấp nước sạch liên tục để giảm nhu cầu dự trữ nước trong các dụng cụ chứa nước lớn.
- Sửa chữa, thông thoáng các máng nước, lấp các hốc cây, xử lý các nơi đọng nước.
- Thời gian: Kế hoạch dài hạn, phối hợp với các ngành chức năng.
- Chủ thể: UBND xã, ngành cấp nước, các tổ chức phát triển cộng đồng.
Tăng cường giám sát véc tơ và dịch bệnh
- Thiết lập hệ thống giám sát véc tơ thường xuyên, đặc biệt tại các ổ bọ gậy nguồn và vùng có nguy cơ cao.
- Giám sát chủ động ca bệnh kết hợp xét nghiệm cận lâm sàng để phát hiện sớm và dự báo dịch.
- Thời gian: Liên tục, tập trung vào mùa dịch.
- Chủ thể: Trung tâm Y tế dự phòng huyện, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cán bộ y tế dự phòng và quản lý dịch bệnh
- Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng kế hoạch phòng chống véc tơ và dịch SD/SXHD phù hợp với điều kiện địa phương.
- Áp dụng các chỉ số véc tơ và phương pháp giám sát để đánh giá hiệu quả can thiệp.
Nhà nghiên cứu và học viên ngành y tế công cộng
- Tham khảo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, kỹ thuật thu thập và phân tích dữ liệu véc tơ, KAP.
- Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến véc tơ và hành vi cộng đồng trong phòng chống bệnh truyền nhiễm.
Lãnh đạo địa phương và các tổ chức xã hội
- Hiểu rõ thực trạng véc tơ và nhận thức cộng đồng để phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vệ sinh môi trường và phòng chống dịch.
- Định hướng huy động nguồn lực và sự tham gia của cộng đồng trong các chiến dịch phòng chống SD/SXHD.
Cộng đồng dân cư tại vùng có nguy cơ cao
- Nâng cao nhận thức về bệnh SD/SXHD, vai trò của từng cá nhân trong việc loại bỏ ổ bọ gậy và bảo vệ sức khỏe gia đình.
- Tham gia tích cực vào các hoạt động phòng chống véc tơ và vệ sinh môi trường.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao chỉ phát hiện Aedes albopictus mà không có Aedes aegypti trong nghiên cứu?
Aedes albopictus là loài muỗi phổ biến ở vùng nông thôn và có khả năng thích nghi tốt với môi trường tự nhiên và nhân tạo tại Đại Yên. Aedes aegypti thường tập trung ở khu vực đô thị. Thời điểm và điều kiện môi trường nghiên cứu cũng ảnh hưởng đến sự phân bố loài muỗi.Các chỉ số bọ gậy như HI, CI, BI có ý nghĩa gì trong phòng chống dịch?
Các chỉ số này phản ánh mật độ và phân bố bọ gậy trong cộng đồng, giúp xác định mức độ nguy cơ bùng phát dịch và hướng dẫn các biện pháp can thiệp phù hợp. Ví dụ, HI > 10% được xem là nguy cơ cao.Tại sao kiến thức tốt không đồng nghĩa với thực hành phòng chống hiệu quả?
Mặc dù người dân có nhận thức về bệnh, nhưng các rào cản như thói quen, điều kiện kinh tế, thiếu công cụ hỗ trợ và sự tham gia cộng đồng hạn chế khiến thực hành phòng chống chưa đạt hiệu quả.Biện pháp sinh học như thả cá và Mesocyclops có ưu điểm gì?
Đây là biện pháp an toàn, bền vững, không gây ô nhiễm môi trường, dễ thực hiện và được cộng đồng chấp nhận. Chúng giúp kiểm soát bọ gậy hiệu quả trong các dụng cụ chứa nước lớn.Làm thế nào để nâng cao sự tham gia của cộng đồng trong phòng chống SD/SXHD?
Cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, tổ chức các chiến dịch vệ sinh môi trường có sự phối hợp của các tổ chức xã hội, khen thưởng các cá nhân, tập thể tích cực tham gia, đồng thời cải thiện điều kiện sống và cung cấp nguồn nước sạch.
Kết luận
- Quần thể véc tơ truyền bệnh SD/SXHD tại xã Đại Yên chủ yếu là Aedes albopictus với mật độ cao, đặc biệt trong dụng cụ phế thải, tạo nguy cơ bùng phát dịch.
- Kiến thức về bệnh và véc tơ của người dân còn hạn chế, thực hành phòng chống chưa hiệu quả, vệ sinh trong nhà và ngoại cảnh chưa đạt yêu cầu.
- Hoạt động phòng chống véc tơ tại địa phương chưa đồng bộ, thiếu biện pháp sinh học và tuyên truyền sâu rộng.
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp tổng hợp gồm tăng cường giáo dục cộng đồng, áp dụng biện pháp sinh học, quản lý dụng cụ phế thải, nâng cấp hệ thống nước sạch và giám sát véc tơ.
- Các bước tiếp theo cần triển khai các giải pháp đề xuất, giám sát hiệu quả và mở rộng nghiên cứu theo dõi biến động véc tơ theo mùa để phòng chống dịch chủ động.
Hành động ngay hôm nay để bảo vệ cộng đồng khỏi nguy cơ dịch sốt xuất huyết!