I. Tổng Quan Về Năng Lực Cạnh Tranh Doanh Nghiệp Bán Lẻ
Toàn cầu hóa kinh tế là yếu tố khách quan cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Gia nhập WTO thể hiện mức độ hội nhập cao nhất. Năm 2006, Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, phải dần xóa bỏ chính sách bảo hộ, cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đối xử công bằng với các loại hình kinh tế. Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tham gia cạnh tranh với tiềm lực lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO còn mang tính bảo hộ và sức cạnh tranh kém. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ nói riêng là việc làm cần thiết. Giúp doanh nghiệp không chỉ đứng vững trước tác động bất lợi từ WTO, mà còn vươn ra thị trường quốc tế. Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ ở Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
1.1. Khái Niệm Doanh Nghiệp Bán Lẻ Vừa và Nhỏ
Trên thế giới và Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng đều dùng để chỉ một loại hình doanh nghiệp được xếp loại theo quy mô sản xuất. Quy mô thường được xác định dựa trên số lượng lao động hoặc tổng số vốn đầu tư, thể hiện tổng giá trị tài sản hoặc doanh thu trong năm. Các nước trên thế giới đều dựa vào hai chỉ tiêu này để xác định quy mô của DNNVV, nhưng ở mức độ định lượng khác nhau. Việc xác định doanh nghiệp có phải là DNNVV hay không còn được xem xét dựa vào hai nhóm tiêu chí phổ biến: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính dựa trên đặc trưng cơ bản của DNNVV như chuyên môn hóa, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp. Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nhóm tiêu chí này thường được dùng để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ sở xác định quy mô doanh nghiệp.
1.2. Tiêu Chí Đánh Giá Doanh Nghiệp Bán Lẻ Nhỏ
Tiêu chí định lượng có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, tổng giá trị tài sản (hay tổng vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận. Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách hoặc số lao động thường xuyên thực tế đóng góp vào quá trình tạo ra giá trị sản phẩm của một doanh nghiệp. Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn) cố định hoặc giá trị tài sản (hay vốn) còn lại của doanh nghiệp. Doanh thu hoặc lợi nhuận có thể là tổng doanh thu (hay lợi nhuận) mà doanh nghiệp phải làm ra trong 1 năm. Trước năm 1998, Chính phủ chưa thông qua văn bản quy phạm quy định tiêu chuẩn cụ thể cho DNNVV. Vì vậy, mỗi tổ chức đều đưa ra một quan niệm khác nhau về DNNVV nhằm định hướng phát triển cho mục tiêu và đối tượng hỗ trợ của mình.
II. Thực Trạng Năng Lực Cạnh Tranh Bán Lẻ Việt Nam WTO
Trước năm 1998, Chính phủ cũng chưa thông qua văn bản quy phạm quy định tiêu chuẩn cụ thể cho DNNVV. Vì vậy mỗi tổ chức đều đưa ra một quan niệm khác nhau về DNNVV nhằm định hướng phát triển cho mục tiêu và đối tượng hỗ trợ của mình. Tại thời điểm này có một số phân loại đáng chú ý như: Ngân hàng Công thương Việt Nam đưa ra tiêu chuẩn DNNVV là những doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, doanh thu dưới 8 tỷ đồng, và số lao động thường xuyên dưới 500 người. Theo cách hiểu này thì DNNVV có thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức sở hữu nào. Tổ chức hỗ trợ UNIDO tại Việt Nam lại dựa trên mục tiêu hỗ trợ để đưa ra những tiêu thức xác định DNNVV. Quan điểm này được thể hiện như sau: doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50 lao động, tổng số vốn và doanh thu dưới 1 tỷ đồng, doanh nghiệp vừa là các doanh nghiệp có số lao động từ 51 đến 200 người, tổng số vốn và doanh thu từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng.
2.1. Tình Hình Sử Dụng Lao Động Tại Doanh Nghiệp Bán Lẻ
Ngoài ra còn có tiêu thức DNNVV là các doanh nghiệp tư nhân đã đăng ký theo Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ sở hữu năm 1990). Ở nước ta, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng doanh nghiệp "nhỏ" là doanh nghiệp có số lao động dưới 50 người hoặc có tổng giá trị vốn dưới 1 tỷ đồng hoặc doanh thu dưới 1 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa có số lao động từ 50 - 200 người hoặc có tổng giá trị vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng hoặc doanh thu từ 1 đến 5 tỷ đồng; doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có trên 200 người hoặc tổng giá trị vốn trên 5 tỷ đồng. Theo Công văn số 681/TP- KTN của Văn phòng Chính phủ ngày 22 tháng 6 năm 1998, các DNNVV trong ngành công nghiệp là các doanh nghiệp phải có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.600 USD) và số lao động trung bình hàng năm dưới 300 người; trong thương mại dịch vụ những doanh nghiệp có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người.
2.2. Vốn Tài Sản và Trang Thiết Bị Doanh Nghiệp Bán Lẻ
Trong đó, doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 50 người trong công nghiệp và dưới 30 người trong thương mại dịch vụ là doanh nghiệp nhỏ. Tiêu chí này dựa trên hai căn cứ là tổng số vốn (theo tiêu chí phân loại của Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp – Bộ Tài chính) và số lao động (theo quy định của Luật khuyến khích và đầu tư trong nước). Các tiêu chí về DNNVV trong công văn này đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng đầu tiên để xác định là các đối tượng DNNVV ở Việt Nam. Theo các tiêu thức này các doanh nghiệp không tính đến loại hình sở hữu là các doanh nghiệp quốc doanh hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
III. Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Bán Lẻ
Ngày 23 tháng 11 năm 2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về sự trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo điều 3 chương 1 của Nghị định này Chính phủ đã đưa ra định nghĩa về DNNVV dựa trên 02 tiêu chí như sau: "DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập; đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người”. Theo định nghĩa trên thì đối tượng được xác định là DNNVV bao gồm: Các DN thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Các DN thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Để xác định DNNVV hay không thì chỉ căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp chứ không thể căn cứ vào loại hình sở hữu. Như vậy sẽ có DNNVV thuộc sở hữu tư nhân, là hợp tác xã và có cả doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên định nghĩa này cũng chưa phản ánh đầy đủ hết đặc tính của từng ngành.
3.1. Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh Bán Lẻ
Như những ngành quy mô lao động ít, nhưng đòi hỏi vốn cao như ngành công nghệ thông tin thì rất khó xác định và xếp loại DNNVV theo tiêu thức này. Do đó cần phải xác định đúng đắn các đặc tính của từng ngành như phân loại quy mô doanh nghiệp theo đúng yêu cầu của thị trường thì định nghĩa về DNNVV có thể phù hợp và chính xác. Một định nghĩa khác của Ban doanh nghiệp - Ngân hàng Thế giới cũng được Chính phủ Việt Nam công nhận (Nghị định 90/2001/NĐ-CP), trong đó, phân chia ra làm 3 nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ: doanh nghiệp siêu nhỏ có dưới 10 lao động, doanh nghiệp nhỏ có dưới 50 lao động và doanh nghiệp vừa có đến dưới 300 lao động.
3.2. Đổi Mới Sáng Tạo Trong Quản Lý Bán Hàng
Bán lẻ - theo Nguyễn Văn Lịch, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công thương [16, tr.7-8] - là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là khâu không thể thiếu trong hệ thống phân phối hàng hóa, “Bán lẻ là bán cho người tiêu dùng, thường là khối lượng nhỏ và không bán lại” – theo từ điển American heritage. Quá trình bán lẻ là khâu cuối cùng trong phân phối hàng hóa, được thực hiện thông qua các cửa hàng hoặc có thể không qua cửa hàng. Các doanh nghiệp, công ty bán lẻ có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức: kinh doanh tổng hợp (kinh doanh nhiều loại mặt hàng như các cửa hàng bách hóa, siêu thị) hay chuyên kinh doanh về một ngành hàng, hay một mặt hàng nào đó.
IV. Ứng Dụng Công Nghệ Số Cho Doanh Nghiệp Bán Lẻ Nhỏ
Trong các danh mục hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam năm 2007 (ban hành kèm theo quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ) có ghi rõ "bán lẻ là bán lại (không làm biến đổi hàng hóa) những hàng hóa loại mới và hàng đã qua sử dụng chủ yếu cho cộng đồng để tiêu dùng cho cá nhân hoặc hộ gia đình, ở các cửa hàng siêu thị, trung tâm mua bán, quầy hàng, cửa hàng nhận đặt và trả hàng bằng đường bưu điện, bán tại các chợ hoặc lưu động hợp tác xã mua bán, nhà đấu giá. Người bán lẻ thường có quyền sở hữu hàng hóa mà họ bán. Cũng theo Nguyễn Văn Lịch, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương [16, tr. hàng hóa bán lẻ nhìn chung là hàng tiêu dùng.
4.1. Tối Ưu Hóa Chuỗi Cung Ứng Bán Lẻ
Những loại hàng hóa thường không được đưa vào bán lẻ như quặng, máy móc, thiết bị công nghiệp không được đề cập ở ngành này. Ngành này cũng gồm các đơn vị mà hoạt động của họ chủ yếu liên quan tới việc bán một số sản phẩm hàng hóa cho tiêu dùng cơ quan, tổ chức như máy tính, văn phòng phẩm, sơn hoặc gỗ xẻ, mặc dù chúng có thể không được sử dụng cho tiêu dùng các nhân hoặc hộ gia đình. Một số hoạt động gia công như phân loại, bảo quản, đóng gói hàng hóa, lắp ráp thiết bị, đồ dùng gia đình. Qua phân tích, ta có thể đi đến khái niệm về doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ như sau: Doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người, bán những mặt hàng tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
4.2. Marketing Bán Lẻ Đa Kênh Hiệu Quả
Mai đã đề cập tới cạnh tranh kinh tế giữa các nhà tư bản như sau: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Theo các học giả kinh tế thuộc trường phái tư sản cổ điển thì: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi, phản ứng, quá trình tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định, mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình”. Theo Nguyễn Như Ý (2008), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB. Hồ Chí Minh, thì: “Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong những lĩnh vực khác nhau. Để đơn giản hóa có thể hiểu cạnh tranh là một sự ganh đua giữa một nhóm người mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị thế của người còn lại.