I. Tổng Quan Về Từ Vựng Mới Tiếng Việt 10 Năm Biến Động
Ngôn ngữ luôn biến đổi và phát triển, phản ánh sự thay đổi của xã hội. Nghiên cứu ngôn ngữ là tiếp cận yếu tố đặc trưng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Ferdinand De Saussure nhấn mạnh ngôn ngữ là hệ thống biểu hiện ý niệm, không chỉ là sự vật và tên gọi. Daniels cho rằng ngôn ngữ thay đổi để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Nguyễn Văn Tu nhận định hệ thống từ vựng ngày nay tiến triển và phong phú thêm. Để đáp ứng với sự xuất hiện của nhiều khái niệm, hiện tượng mới, nhiều từ mới được tạo ra. Nhiều từ cũ bị mất đi vì không hợp thời nữa. Nhiều từ khác biến đổi về nghĩa cũng như về cách dùng. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng sự mở rộng thế giới khái niệm đòi hỏi phải cấu tạo thêm những đơn vị từ vựng trên cơ sở những từ đã có. Ngôn ngữ luôn sống và tồn tại trong xã hội, phục vụ cho xã hội. Khoa học phát triển, ngôn ngữ cũng phát triển theo. Xã hội tác động lên ngôn ngữ, làm cho ngôn ngữ phát triển. Ngôn ngữ loại bỏ những từ không còn cần thiết, tạo ra từ mới và biến đổi nghĩa. Đây là tiến trình tất yếu khách quan.
1.1. Sự Thay Đổi Từ Vựng Tiếng Việt Trong Bối Cảnh Hội Nhập
Trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, các ngôn ngữ trên thế giới có sự biến đổi mạnh mẽ trong vốn từ vựng. Sự xuất hiện ngày càng nhiều những đơn vị từ vựng mới để biểu đạt các sự vật, sự việc, hiện tượng mới trên nhiều lĩnh vực. Việc bổ sung nghĩa mới cho các từ đã có, vay mượn từ ngữ từ các ngôn ngữ khác để thực hiện chức năng giao tiếp trong giai đoạn hiện nay. Việc xã hội không ngừng phát triển để đáp ứng yêu cầu phục vụ con người trên mọi lĩnh vực của một nền khoa học tiên tiến là nguyên nhân chính tạo ra những khái niệm, sự vật mới. Tiếng Việt của chúng ta trong vòng mười năm trở lại đây cũng có những biến đổi tương tự. Việc tạo ra các khái niệm, sự vật, sự việc mới, từ trong nước và cả du nhập từ bên ngoài, đều cần từ vựng mới để biểu đạt.
1.2. Tầm Quan Trọng Của Nghiên Cứu Từ Vựng Mới Tiếng Việt
Sự xuất hiện hàng loạt các từ vựng mới, sự thay đổi nghĩa của các từ ngữ đã có, có một ý nghĩa hết sức to lớn và quan trọng trong hoạt động hành chức, trong việc thực hiện chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Việc xuất hiện các từ vựng mới, với các nghĩa mới lại càng làm giàu hơn vốn từ vựng của ngôn ngữ. Và khi chúng ta nói đến từ mới thì chúng ta không thể không nói đến phương thức cấu tạo, nghĩa và từ loại của từ. Trong tiếng Việt, có rất nhiều phương thức để cấu tạo từ như: cấu tạo mới, mở rộng hay thu hẹp nghĩa của một từ đã có, ghép những từ đã có để tạo ra lớp từ vựng mới, láy, vay mượn từ nước ngoài . và những phương thức này đều có những tác động nhất định đến quá trình tạo ra lớp từ vựng mới trong thời gian qua.
II. Thách Thức Trong Nghiên Cứu Từ Vựng Mới Tiếng Việt Hiện Nay
Việc nghiên cứu lớp từ vựng mới là một nhiệm vụ lớn, đòi hỏi phải có nhiều thời gian tổng hợp, nghiên cứu toàn diện. Do đó, trong luận án này, chúng tôi chỉ khảo sát các lớp từ vựng mới với các tiêu chí như sau: Những đơn vị từ vựng mới có chức năng định danh những sự vật, hiện tượng, khái niệm mới xuất hiện trong mười năm trở lại đây và chủ yếu là lớp từ vựng xuất hiện trong ba năm từ năm 2005 đến năm 2007. Những đơn vị từ vựng mới là những đơn vị chưa từng xuất hiện trong những cuốn từ điển được đem ra đối chiếu hoặc những đơn vị này nếu có xuất hiện trong các từ điển đó nhưng nay được cấu tạo mới. Những đơn vị từ vựng mới được nghiên cứu trong luận án này thuộc loại từ toàn dân chứ không bao gồm các từ thuộc nhóm từ địa phương, từ thông tục, tiếng lóng v.
2.1. Phạm Vi Nghiên Cứu Từ Vựng Mới Tiếng Việt
Ngữ liệu được tiến hành trích xuất là từ các báo xuất bản ở Thành phố Hồ Chí Minh như: báo Người Lao Động, Người Lao Động Online, Phụ Nữ, Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên, Thanh Niên Online, Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Online và các báo xuất bản ở Hà Nội như: báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, VietNamNet . Lớp từ vựng mới có thể là từ đơn, từ ghép, từ láy và từ ngẫu hợp. Chúng cũng có thể được cấu tạo từ các yếu tố có sẵn của tiếng Việt hoặc vay mượn. Do đó trong quá trình nghiên cứu đặc trưng của lớp từ vựng mới từ góc độ cấu tạo, từ loại và ngữ nghĩa, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích về đặc trưng của từng thành tố, nếu là từ ghép hoặc từ láy, tham gia hình thành nên lớp từ ngữ này.
2.2. Phương Pháp Phân Tích Ngữ Liệu Từ Vựng Mới
Để việc phân tích được chuẩn xác, các ngữ liệu sẽ được phân chia như sau: Ngữ liệu được sắp xếp theo các phương thức cấu tạo và các đơn vị mục từ được xếp theo thứ tự chữ cái. Phân tích ngữ liệu về lớp từ vựng mới tiếng Việt, ngữ liệu về lớp từ vựng mới tiếng Anh và sau đó tiến hành đối chiếu hai ngôn ngữ nhằm tìm ra những điểm tương đồng cũng như những điểm khác biệt. Cũng trong luận án này, qua khảo sát lớp từ vựng mới tiếng Việt, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh đối chiếu với lớp từ vựng mới tiếng Anh trên cả ba bình diện: cấu tạo, từ loại và ngữ nghĩa.
III. Cách Cấu Tạo Từ Vựng Mới Tiếng Việt Phân Tích Chi Tiết
Tiếng Việt có nhiều phương thức cấu tạo từ mới. Cấu tạo mới hoàn toàn, mở rộng hoặc thu hẹp nghĩa của từ đã có, ghép các từ đã có, láy, và vay mượn từ nước ngoài. Các phương thức này đều tác động đến quá trình tạo ra lớp từ vựng mới. Nguyễn Thiện Giáp (2003) đã nêu rõ sự phát triển về bình diện từ vựng tiếng Việt kể từ khi chữ Nôm theo nguyên tắc của chữ Hán được sáng tạo đến khi có chữ Quốc ngữ được cấu tạo theo nguyên tắc của chữ Latin do các cố đạo phương Tây tạo ra cho mục đích truyền bá đạo ở nước ta và sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất cũng là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chữ Quốc ngữ.
3.1. Phát Triển Nghĩa Mới Của Từ Vựng Tiếng Việt
Theo Nguyễn Thiện Giáp, có nhiều phương thức để tạo từ mới như: Phát triển thêm nghĩa mới: Phương thức này xoay quanh hai quá trình: Mở rộng hoặc thu hẹp nghĩa vốn có và chuyển đổi tên gọi (ẩn dụ hoặc hoán dụ). Theo phương thức này, mặt ngữ âm của các đơn vị từ vựng vẫn giữ nguyên nhưng mặt ngữ nghĩa lại biến đổi, phát triển phong phú hơn. Có trường hợp việc biến đổi ý nghĩa của từ chỉ tạo ra một sắc thái mới về nghĩa chứ chưa tạo ra nghĩa mới.
3.2. Ghép Các Yếu Tố Sẵn Có Trong Tiếng Việt
Ghép các yếu tố sẵn có: Đây là phương thức chủ yếu để cấu tạo các đơn vị từ vựng mới của tiếng Việt như: móc nối, bắn tỉa, khế ngọt . Yếu tố sẵn có được dùng để cấu tạo các đơn vị từ vựng mới không chỉ là những từ thuần Việt mà còn bao gồm những từ Hán – Việt đã nhập vào tiếng Việt từ trước và được người Việt coi như vốn sẵn có của mình, ví dụ như: bệnh viện, ca hát, súng lục, súng trường . Những đơn vị từ vựng như ngụy biện, phiêu bạt, nội quy, y tá . gồm các từ Hán – Việt ghép với nhau, mới nhìn tưởng là du nhập từ tiếng Hán, kỳ thực những đơn vị từ vựng này mới được cấu tạo ở Việt Nam.
IV. Vay Mượn Từ Nước Ngoài Xu Hướng Trong Từ Vựng Mới
Trong quá trình phát triển, tiếng Việt vay mượn thêm từ ngữ, ý nghĩa và cách cấu tạo của ngôn ngữ khác. Lớp từ vựng vay mượn được xử lý bằng các phương thức: Ngoại lai: Từ ngoại lai là những từ mà tiếng Việt vay mượn của các ngôn ngữ khác cả về hình thức lẫn nội dung. Tiếng Việt vay mượn chủ yếu từ tiếng Hán như cộng hòa, đại sứ quán ., các ngôn ngữ Ấn Âu như lô cốt, xô viết . và cả ngôn ngữ của các dân tộc ít người ở Việt Nam nhưng số này không nhiều như buôn, bản, phai .
4.1. Các Phương Thức Vay Mượn Từ Vựng Tiếng Việt
Những từ vay mượn có thể tồn tại dưới các hình thức như: giữ nguyên dạng gốc (veston, blouse .), chuyển tự (Leningrad, Moskva .) và phiên âm là ghi lại cách phát âm các đơn vị từ vựng nước ngoài bằng hệ thống chữ cái của tiếng Việt (béton ( bê tông, bích tông, boulon ( bù lon, bu long, bu loong, bù loong .). Ngoài các đơn vị từ vựng, tiếng Việt cũng vay mượn các đơn vị viết tắt của tiếng nước ngoài như: EC = European Community (Cộng đồng châu Âu), WB = World bank (Ngân hàng Thế giới).
4.2. Ảnh Hưởng Của Tiếng Anh Đến Từ Vựng Mới Tiếng Việt
Đây là phương thức ghép mà trong đó có một phần là bản ngữ và một phần là ngoại lai nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn là ngoại lai. Ví dụ: áo măng tô, áo vét, đạn gây nhiễu rađa . Ngoài việc mượn từ, phương thức sao phỏng cấu tạo từ là dùng chất liệu của tiếng Việt để cấu tạo một đơn vị từ vựng dựa theo mẫu về kết cấu của đơn vị tương ứng trong ngoại ngữ nào đó. Thực chất đây là việc dịch từng hình vị hoặc từng đơn vị tương ứng. Ví dụ: kim loại hóa ( metaliser ), chắn bùn ( garde boue ).
V. So Sánh Từ Vựng Mới Tiếng Việt và Tiếng Anh Điểm Khác
Luận án này so sánh đối chiếu lớp từ vựng mới tiếng Việt với tiếng Anh trên ba bình diện: cấu tạo, từ loại và ngữ nghĩa. Tiếng Anh được chọn vì là ngôn ngữ phổ biến, nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật được chuyển đổi tên gọi từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Việc so sánh, đối chiếu để đưa ra một phương thức xử lý lớp từ này là cần thiết. Một thực tế là tiếng nước ngoài được sử dụng cùng lúc với tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Anh. Việc nghiên cứu nhằm tìm hiểu nguyên nhân và có thể đưa ra hướng đề xuất cho việc xử lý hiện tượng này.
5.1. Lý Do Chọn Tiếng Anh Để So Sánh Từ Vựng
Trong giai đoạn phát triển hiện nay trên toàn thế giới, ngày càng có nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật được phát minh từ nước ngoài và sau đó, những thành tựu này được nhập vào nước ta. Việc chuyển đổi tên gọi những sự vật, sự việc này bằng tiếng Việt dựa trên tiếng Anh xuất hiện ngày càng nhiều. Do đó, việc so sánh, đối chiếu để đưa ra một phương thức xử lý lớp từ này là cần thiết.
5.2. Tác Động Của Tiếng Anh Đến Sự Phát Triển Tiếng Việt
Một thực tế tồn tại trong nhiều năm qua trong xã hội chúng ta là việc tiếng nước ngoài được sử dụng cùng một lúc với tiếng Việt – đặc biệt là tiếng Anh. Đây có thể được coi là một hiện tượng không lành mạnh trong việc bảo tồn tiếng Việt. Việc nghiên cứu nhằm tìm hiểu nguyên nhân và có thể đưa ra hướng đề xuất cho việc xử lý hiện tượng này.
VI. Kết Luận Hướng Nghiên Cứu Từ Vựng Mới Tiếng Việt Tương Lai
Hiện nay, ngoài cuốn “Từ điển từ mới tiếng Việt” (TS. Chu Bích Thu - Chủ biên), (2002) của Viện Ngôn ngữ học do Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, thì việc nghiên cứu về lớp từ mới xuất hiện trong vòng 10 năm trở lại đây có thể nói là chưa nhiều. Trong công trình nghiên cứu “về cách sáng tạo và sử dụng từ mới trên tư liệu báo Nhân Dân giai đoạn 1986 – 2000”, tác giả Bùi Thị Thanh Lương cho rằng “hiện nay các phương thức tạo từ mới chủ yếu gồm: phương thức cấu tạo từ bằng cách ghép, láy và chuyển nghĩa, phương thức vay mượn trong đó phương thức ghép được triệt để khai thác.
6.1. Các Nghiên Cứu Hiện Tại Về Từ Vựng Mới Tiếng Việt
Với loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình thì ghép là phương thức có khả năng sản sinh rất lớn. Mối quan hệ giữa các hình vị trong từ ghép có thể chặt hay lỏng tùy theo từng trường hợp cụ thể, với nhiều kiểu ghép khác nhau như: Ghép hai hình vị hạn chế với nhau, Ghép hình vị hạn chế với hình vị tự do, Ghép hai hình vị tự do với nhau.
6.2. Tiềm Năng Phát Triển Nghiên Cứu Từ Vựng Mới Tiếng Việt
Theo Bùi Thị Thanh Lương, trong ba cách ghép nêu trên thì cách ghép hai hình vị tự do là cách đơn giản và thuận tiện nhất. Về việc vay mượn từ ngữ, tác giả cũng cho rằng cần có sự chọn lọc và sử dụng hợp lý để tránh làm mất đi bản sắc của tiếng Việt.