Tổng quan nghiên cứu

Việc kê đơn thuốc không bảo hiểm y tế trong điều trị ngoại trú tại các bệnh viện đa khoa đang là vấn đề nổi bật, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả điều trị và chi phí y tế. Tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang năm 2017, trung bình mỗi đơn thuốc có 4,05 loại thuốc, trong đó 51,11% đơn có kê kháng sinh, 35,06% đơn có kê vitamin – khoáng chất, nhưng chỉ 13,47% thuốc được kê theo tên chung quốc tế và 63,74% thuốc kê là thuốc thiết yếu. Thực trạng này cho thấy việc kê đơn chưa tuân thủ đầy đủ quy chế kê đơn thuốc ngoại trú theo Thông tư số 05/2016/TT-BYT của Bộ Y tế, với chỉ 0,25% đơn thuốc thực hiện đúng đầy đủ 9 yêu cầu chung. Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kê đơn thuốc không bảo hiểm y tế tại BVĐK tỉnh Kiên Giang, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc kê đơn, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng kê đơn, đảm bảo an toàn và hợp lý trong điều trị ngoại trú. Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2017, tại khoa Khám bệnh của bệnh viện, với cỡ mẫu 405 đơn thuốc và phỏng vấn sâu các cán bộ y tế liên quan. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cải thiện công tác quản lý kê đơn thuốc, giảm thiểu lạm dụng thuốc, đặc biệt là kháng sinh và vitamin – khoáng chất, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân không có bảo hiểm y tế.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình về sử dụng thuốc hợp lý của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong đó các chỉ số kê đơn thuốc được sử dụng làm công cụ đánh giá thực trạng kê đơn. Các khái niệm chính bao gồm: thuốc thiết yếu, thuốc kháng sinh, thuốc vitamin – khoáng chất, tên gốc (generic name) và tên biệt dược (brand name). Quy chế kê đơn thuốc ngoại trú theo Thông tư số 05/2016/TT-BYT quy định các yêu cầu bắt buộc về nội dung đơn thuốc, nhằm đảm bảo kê đơn hợp lý, an toàn và hiệu quả. Khung lý thuyết nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kê đơn thuốc thuộc về bác sĩ kê đơn (tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn, thâm niên, thái độ, kiến thức, thói quen), bệnh nhân (tình trạng bệnh, niềm tin, thói quen dùng thuốc), cơ sở y tế (chuyên khoa khám bệnh, tình trạng quá tải, hoạt động của Hội đồng Thuốc và điều trị, cung cấp thuốc, phần mềm kê đơn điện tử) và các yếu tố khác như ảnh hưởng từ nhà cung cấp thuốc và sự xuất hiện của thuốc mới.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp cắt ngang, kết hợp nghiên cứu định lượng và định tính. Nguồn dữ liệu định lượng gồm 405 đơn thuốc của bệnh nhân không bảo hiểm y tế điều trị ngoại trú tại khoa Khám bệnh BVĐK tỉnh Kiên Giang năm 2017, được chọn mẫu ngẫu nhiên theo ngày (20 đơn/ngày, 10 đơn buổi sáng và 10 đơn buổi chiều trong 20 ngày làm việc). Dữ liệu định tính thu thập qua phỏng vấn sâu với các cán bộ y tế gồm Chủ tịch Hội đồng Thuốc và điều trị, Phó Giám đốc bệnh viện phụ trách chuyên môn, Trưởng khoa Khám bệnh, Trưởng khoa Dược và thảo luận nhóm với 14 bác sĩ khám bệnh. Phân tích số liệu định lượng sử dụng phần mềm SPSS 16.0, các biến số được đánh giá theo các chỉ số kê đơn thuốc của WHO và quy định của Bộ Y tế. Dữ liệu định tính được mã hóa và phân tích theo chủ đề nhằm làm rõ các yếu tố ảnh hưởng và thực trạng thực hiện quy chế kê đơn. Nghiên cứu tuân thủ các quy định đạo đức nghiên cứu y sinh học, được Hội đồng đạo đức Trường Đại học Y tế Công cộng phê duyệt.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Số lượng thuốc trung bình trên một đơn thuốc là 4,05 ± 1,26 loại, dao động từ 1 đến 7 loại thuốc, trong đó phòng khám Nhi có số thuốc trung bình cao nhất (4,49 ± 1,55), phòng khám Mắt thấp nhất (3,06 ± 1,50).

  2. Tỷ lệ thuốc kê theo tên chung quốc tế rất thấp, chỉ đạt 13,47% tổng số thuốc kê, với 86,53% thuốc kê không theo tên chung. Phòng khám Ngoại có tỷ lệ thuốc không kê tên chung cao nhất (91,67%).

  3. Tỷ lệ đơn thuốc có kê kháng sinh là 51,11%, trong đó 40,99% đơn có 1 loại kháng sinh và 10,12% đơn có 2 loại. Phòng khám Tai Mũi Họng có tỷ lệ đơn kê kháng sinh cao nhất (92,5%).

  4. Tỷ lệ đơn thuốc có kê vitamin – khoáng chất là 35,06%, chủ yếu là 1 loại vitamin – khoáng chất (33,58%). Phòng khám Nhi chiếm tỷ lệ cao nhất (73,33%).

  5. Tỷ lệ thuốc thiết yếu trong các đơn thuốc là 63,74%, thấp hơn mức kỳ vọng của chính sách thuốc quốc gia. Phòng khám chuyên khoa khác có tỷ lệ thuốc thiết yếu cao nhất (69,17%), phòng khám Ngoại thấp nhất (52,78%).

  6. Chỉ có 0,25% đơn thuốc thực hiện đúng đầy đủ 9 yêu cầu chung của quy chế kê đơn thuốc ngoại trú, 99,75% đơn thuốc còn lại không đúng quy định, chủ yếu do không ghi đầy đủ địa chỉ bệnh nhân (99,26%), không ghi tên thuốc theo tên chung quốc tế (98,52%), không ghi đầy đủ thông tin thuốc (92,59%) và không ghi đầy đủ thông tin trẻ dưới 72 tháng tuổi (84,44%).

  7. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê đơn thuốc bao gồm:

    • Giới tính bác sĩ: nữ kê thuốc thiết yếu nhiều hơn nam.
    • Tuổi và thâm niên bác sĩ: bác sĩ lớn tuổi, có kinh nghiệm thường kê kháng sinh và vitamin – khoáng chất nhiều hơn.
    • Trình độ chuyên môn: bác sĩ có trình độ sau đại học mạnh dạn kê kết hợp thuốc hơn.
    • Yếu tố bệnh nhân: tình trạng bệnh, niềm tin và thói quen dùng thuốc ảnh hưởng đến số lượng thuốc và loại thuốc kê.
    • Yếu tố cơ sở y tế: chuyên khoa khám bệnh, tình trạng quá tải, hoạt động của Hội đồng Thuốc và điều trị, cung cấp thuốc và phần mềm kê đơn điện tử.

Thảo luận kết quả

Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng kê đơn thuốc không bảo hiểm y tế tại BVĐK tỉnh Kiên Giang còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc kê đơn không đúng quy chế, lạm dụng kháng sinh và vitamin – khoáng chất, cũng như tỷ lệ thuốc kê theo tên chung quốc tế rất thấp. Số lượng thuốc trung bình trên đơn thuốc (4,05 loại) tương đương hoặc cao hơn mức khuyến cáo của WHO (không quá 4 loại), phản ánh nguy cơ đa thuốc và tương tác thuốc. Tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh (51,11%) cao hơn mức khuyến cáo của WHO (30-60%), cho thấy nguy cơ lạm dụng kháng sinh vẫn còn phổ biến. Việc ghi thiếu thông tin trong đơn thuốc, đặc biệt là địa chỉ bệnh nhân và thông tin trẻ dưới 72 tháng tuổi, làm giảm tính pháp lý và an toàn trong sử dụng thuốc.

So sánh với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, kết quả tương đồng với các báo cáo tại các bệnh viện khác ở Việt Nam như BVĐK Vĩnh Long, BVĐK Bắc Giang, cho thấy vấn đề kê đơn không hợp lý là phổ biến. Nguyên nhân được xác định liên quan đến đặc điểm cá nhân bác sĩ (tuổi, giới, trình độ), áp lực công việc, thói quen kê đơn, cũng như yếu tố bệnh nhân và cơ sở y tế. Việc thiếu sử dụng phần mềm kê đơn điện tử và hoạt động giám sát kê đơn chưa hiệu quả cũng góp phần làm gia tăng sai sót.

Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ các chỉ số kê đơn theo chuyên khoa, biểu đồ tròn phân bố tỷ lệ đơn thuốc đúng và không đúng quy chế, bảng so sánh số lượng thuốc trung bình trên đơn theo từng nhóm bác sĩ và chuyên khoa. Các kết quả này nhấn mạnh sự cần thiết của các can thiệp nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng kê đơn và quản lý kê đơn thuốc tại bệnh viện.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Triển khai phần mềm kê đơn thuốc điện tử cho bệnh nhân khám chữa bệnh ngoại trú không bảo hiểm y tế tại BVĐK Kiên Giang nhằm nâng cao tính chính xác, đầy đủ và minh bạch trong kê đơn. Thời gian thực hiện trong 6 tháng, chủ thể thực hiện là Ban Giám đốc bệnh viện phối hợp với phòng Công nghệ thông tin.

  2. Tổ chức tập huấn quy định kê đơn thuốc ngoại trú cho toàn bộ bác sĩ, đặc biệt là các bác sĩ tại khoa Khám bệnh, tập trung vào các yêu cầu của Thông tư 05/2016/TT-BYT và hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý. Thời gian tập huấn định kỳ 3 tháng/lần, do Hội đồng Thuốc và điều trị phối hợp với phòng Đào tạo tổ chức.

  3. Tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra và phân tích chỉ số kê đơn tại bệnh viện, xây dựng kế hoạch kiểm tra định kỳ hàng quý, phản hồi kết quả cho các khoa phòng để kịp thời điều chỉnh. Chủ thể thực hiện là Hội đồng Thuốc và điều trị cùng tổ Dược lâm sàng.

  4. Nâng cao nhận thức và thay đổi thái độ của bác sĩ về kê đơn hợp lý, thông qua các buổi hội thảo, chia sẻ kinh nghiệm và khuyến khích sử dụng tên thuốc chung quốc tế, hạn chế kê thuốc không thiết yếu và lạm dụng kháng sinh, vitamin – khoáng chất. Thời gian thực hiện liên tục, do Ban Giám đốc và Hội đồng Thuốc và điều trị phối hợp thực hiện.

  5. Tăng cường cung cấp thông tin thuốc và hỗ trợ tư vấn cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân hiểu rõ về thuốc, giảm thiểu yêu cầu kê đơn không hợp lý từ phía người bệnh. Chủ thể thực hiện là phòng Dược và khoa Khám bệnh, phối hợp với các nhân viên y tế.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Nhà quản lý bệnh viện và phòng khám: Nghiên cứu cung cấp dữ liệu thực trạng kê đơn thuốc không bảo hiểm y tế, giúp xây dựng chính sách quản lý kê đơn, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ngoại trú.

  2. Bác sĩ và nhân viên y tế: Hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến kê đơn thuốc, nhận thức về quy chế kê đơn và các chỉ số kê đơn thuốc, từ đó cải thiện thực hành kê đơn hợp lý, an toàn.

  3. Chuyên gia dược lâm sàng và Hội đồng Thuốc và điều trị: Sử dụng kết quả nghiên cứu để giám sát, đánh giá và đề xuất các can thiệp nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc, giảm thiểu sai sót và lạm dụng thuốc.

  4. Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng, quản lý bệnh viện: Tham khảo phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính, cũng như các phân tích về thực trạng và yếu tố ảnh hưởng trong lĩnh vực kê đơn thuốc.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao tỷ lệ thuốc kê theo tên chung quốc tế lại thấp?
    Nguyên nhân chính là do thói quen kê đơn theo tên biệt dược, thiếu nhận thức về lợi ích của thuốc tên chung, cũng như áp lực từ các công ty dược và sự thiếu cập nhật thông tin của bác sĩ. Ví dụ, chỉ có 13,47% thuốc kê theo tên chung tại BVĐK Kiên Giang năm 2017.

  2. Việc kê đơn nhiều thuốc có ảnh hưởng gì đến bệnh nhân?
    Kê đơn nhiều thuốc làm tăng nguy cơ tương tác thuốc, phản ứng có hại, giảm hiệu quả điều trị và tăng chi phí. WHO khuyến cáo không quá 4 loại thuốc trên một đơn, tuy nhiên nghiên cứu cho thấy trung bình 4,05 loại thuốc/đơn.

  3. Yếu tố nào ảnh hưởng nhiều nhất đến việc kê đơn không đúng quy chế?
    Yếu tố thuộc về bác sĩ như tuổi, thâm niên, trình độ chuyên môn, thái độ và thói quen kê đơn là những yếu tố quan trọng. Ngoài ra, yếu tố bệnh nhân và cơ sở y tế cũng đóng vai trò không nhỏ.

  4. Làm thế nào để giảm lạm dụng kháng sinh trong kê đơn?
    Cần tăng cường tập huấn, giám sát kê đơn, áp dụng phần mềm kê đơn điện tử, nâng cao nhận thức bác sĩ và tư vấn cho bệnh nhân về sử dụng kháng sinh hợp lý. Ví dụ, tại BVĐK Kiên Giang, 51,11% đơn có kê kháng sinh, cần kiểm soát chặt chẽ.

  5. Phần mềm kê đơn điện tử có tác dụng gì?
    Phần mềm giúp chuẩn hóa quy trình kê đơn, giảm sai sót, đảm bảo đầy đủ thông tin, hỗ trợ bác sĩ lựa chọn thuốc hợp lý và theo dõi tình trạng kê đơn, từ đó nâng cao chất lượng điều trị và an toàn cho bệnh nhân.

Kết luận

  • Thực trạng kê đơn thuốc không bảo hiểm y tế tại BVĐK tỉnh Kiên Giang năm 2017 còn nhiều bất cập, với số lượng thuốc trung bình 4,05 loại/đơn, tỷ lệ thuốc kê tên chung quốc tế thấp (13,47%) và chỉ 0,25% đơn thuốc thực hiện đúng quy chế.
  • Các yếu tố ảnh hưởng đến kê đơn bao gồm đặc điểm bác sĩ (giới tính, tuổi, thâm niên, trình độ), tình trạng bệnh và niềm tin của bệnh nhân, cũng như điều kiện cơ sở y tế.
  • Việc lạm dụng kháng sinh và vitamin – khoáng chất vẫn phổ biến, tiềm ẩn nguy cơ tương tác thuốc và tăng chi phí điều trị.
  • Cần triển khai phần mềm kê đơn điện tử, tổ chức tập huấn, tăng cường giám sát và nâng cao nhận thức bác sĩ để cải thiện chất lượng kê đơn.
  • Các bước tiếp theo là thực hiện các giải pháp đề xuất, đánh giá hiệu quả can thiệp và mở rộng nghiên cứu tại các bệnh viện khác nhằm nâng cao công tác quản lý kê đơn thuốc.

Hành động ngay hôm nay để nâng cao chất lượng kê đơn thuốc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và tối ưu hóa nguồn lực y tế!