Tổng quan nghiên cứu
Tình trạng thừa cân-béo phì (TC-BP) đang gia tăng nhanh chóng trên toàn cầu, với số người mắc tăng từ 857 triệu năm 1980 lên 2,1 tỷ năm 2013. Ở Việt Nam, tỷ lệ TC-BP cũng tăng mạnh, đặc biệt ở trẻ em, với tỷ lệ thừa cân-béo phì ở học sinh tiểu học lên đến 29% theo kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2017-2018. Tại thành phố Trà Vinh, chưa có nghiên cứu cụ thể nào về tình trạng TC-BP ở học sinh tiểu học, trong khi đây là tỉnh có tiềm năng phát triển lớn, cần có thế hệ trẻ khỏe mạnh để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình TC-BP ở học sinh tiểu học tại các trường trên địa bàn thành phố Trà Vinh trong giai đoạn 2020-2021. Mục tiêu chính gồm xác định tỷ lệ TC-BP và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng này. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp dữ liệu thực tiễn, làm cơ sở cho các hoạt động can thiệp phòng chống TC-BP, góp phần nâng cao sức khỏe thể chất và trí tuệ của thế hệ trẻ tại địa phương.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm 640 học sinh tiểu học thuộc 4 trường trên địa bàn thành phố Trà Vinh, với thời gian thu thập dữ liệu từ tháng 5/2020 đến tháng 10/2021. Các chỉ số nhân trắc như chiều cao, cân nặng được đo trực tiếp, kết hợp với khảo sát thói quen ăn uống, hoạt động thể lực và các yếu tố gia đình nhằm đánh giá toàn diện tình trạng TC-BP và các yếu tố nguy cơ liên quan.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Luận văn dựa trên các lý thuyết và mô hình sau:
Chỉ số khối cơ thể (BMI): Là công cụ chính để đánh giá tình trạng TC-BP, được tính bằng công thức BMI = cân nặng (kg) / chiều cao (m)^2. Tiêu chuẩn phân loại theo WHO và dành riêng cho người châu Á được sử dụng để xác định thừa cân (BMI > 85th percentile) và béo phì (BMI > 95th percentile) ở trẻ em từ 6-10 tuổi.
Mô hình các yếu tố nguy cơ TC-BP: Bao gồm yếu tố di truyền, gia đình, thói quen ăn uống, hoạt động thể lực, điều kiện kinh tế xã hội và các yếu tố môi trường khác. Mô hình này giúp phân tích mối liên quan giữa các yếu tố với tình trạng TC-BP.
Khái niệm về hậu quả TC-BP: TC-BP không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất như tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây (đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch) mà còn tác động tiêu cực đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của trẻ.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích nhằm khảo sát tỷ lệ TC-BP và các yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học.
Cỡ mẫu và chọn mẫu: Tổng số 640 học sinh được chọn theo phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1 chọn ngẫu nhiên 4 trường tiểu học trong tổng số 13 trường tại thành phố Trà Vinh. Giai đoạn 2 chọn ngẫu nhiên 1 lớp ở mỗi khối, với một trường chọn 5 lớp. Giai đoạn 3 chọn toàn bộ học sinh trong lớp tham gia nghiên cứu.
Thu thập dữ liệu: Đo chiều cao, cân nặng trực tiếp bằng thiết bị chuẩn hóa. Thu thập thông tin về thói quen ăn uống, hoạt động thể lực, đặc điểm gia đình qua bộ câu hỏi tự điền dành cho cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng.
Phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS 20. Thống kê mô tả tính tần số, tỷ lệ phần trăm, trung bình và độ lệch chuẩn. Phân tích mối liên quan giữa TC-BP và các yếu tố nguy cơ bằng kiểm định chi bình phương, phân tích hồi quy đơn biến và đa biến.
Đạo đức nghiên cứu: Đảm bảo tính chính xác, bảo mật thông tin cá nhân, sự đồng thuận tự nguyện của đối tượng tham gia. Nghiên cứu được Hội đồng đạo đức Trường Đại học Y Dược Cần Thơ phê duyệt.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Tỷ lệ thừa cân-béo phì: Tỷ lệ TC-BP ở học sinh tiểu học tại thành phố Trà Vinh là 42,4%, trong đó thừa cân chiếm 13,3% và béo phì chiếm 29,1%. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với mức trung bình quốc gia (29%) và phản ánh mức độ nghiêm trọng của vấn đề tại địa phương.
Ảnh hưởng của giới tính và lớp học: Tỷ lệ TC-BP ở học sinh nam (48,6%) cao hơn nữ (36,4%) với ý nghĩa thống kê (p=0,002). Tỷ lệ TC-BP cao nhất ở lớp 1 (44,8%) và thấp nhất ở lớp 2 (39,6%), tuy nhiên sự khác biệt giữa các lớp không có ý nghĩa thống kê.
Yếu tố gia đình: Trẻ có cha mẹ làm cán bộ công nhân viên chức có nguy cơ TC-BP cao hơn (OR=1,438 đối với cha, OR=1,470 đối với mẹ, p<0,05). Trẻ có cha mẹ bị TC-BP cũng có nguy cơ cao hơn đáng kể (OR=1,794 với cha, p=0,001). Trình độ học vấn của mẹ dưới cấp 3 liên quan đến tỷ lệ TC-BP thấp hơn (p=0,024).
Thói quen ăn uống và hoạt động thể lực: Trẻ ăn nhanh (dưới 30 phút/bữa) có tỷ lệ TC-BP cao hơn (46,2% so với 32%, p=0,001). Tần suất sử dụng chất béo và đồ ngọt có xu hướng làm tăng nguy cơ TC-BP nhưng chưa đạt ý nghĩa thống kê. Thời gian vận động trên 1 giờ/ngày chiếm 41,9%, tuy nhiên vẫn còn nhiều trẻ vận động dưới mức này.
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy tỷ lệ TC-BP ở học sinh tiểu học Trà Vinh cao hơn mức trung bình quốc gia và nhiều địa phương khác, phản ánh xu hướng gia tăng nhanh chóng của đại dịch béo phì trẻ em tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ TC-BP cao hơn ở nam giới phù hợp với nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế, có thể do khác biệt về hoạt động thể lực và thói quen ăn uống.
Yếu tố gia đình, đặc biệt nghề nghiệp và tình trạng TC-BP của cha mẹ, đóng vai trò quan trọng trong nguy cơ TC-BP của trẻ, phù hợp với mô hình di truyền và môi trường gia đình ảnh hưởng đến thói quen dinh dưỡng và vận động. Thói quen ăn nhanh làm tăng nguy cơ TC-BP do trẻ dễ ăn quá mức và khó kiểm soát lượng thức ăn.
Mặc dù tần suất sử dụng chất béo và đồ ngọt chưa cho thấy ý nghĩa thống kê, xu hướng này vẫn cần được quan tâm trong các can thiệp dinh dưỡng. Thời gian vận động thể lực chưa đạt khuyến nghị ở nhiều trẻ, góp phần làm tăng nguy cơ TC-BP.
Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ phân bố tỷ lệ TC-BP theo giới tính, lớp học và bảng phân tích hồi quy đa biến để minh họa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường giáo dục dinh dưỡng và vận động cho học sinh: Triển khai các chương trình giáo dục về thói quen ăn uống lành mạnh và vận động thể lực tại trường học, nhằm giảm tỷ lệ TC-BP. Mục tiêu giảm 10% tỷ lệ TC-BP trong vòng 2 năm. Chủ thể thực hiện: Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với ngành Y tế.
Hỗ trợ gia đình xây dựng môi trường dinh dưỡng lành mạnh: Tổ chức các buổi tập huấn, truyền thông cho cha mẹ về chế độ ăn hợp lý, hạn chế thức ăn nhanh, đồ ngọt và khuyến khích vận động cho trẻ. Mục tiêu nâng cao nhận thức của 80% phụ huynh trong 1 năm. Chủ thể thực hiện: Trung tâm Y tế dự phòng thành phố Trà Vinh.
Phát triển chính sách hỗ trợ vận động thể lực trong trường học: Xây dựng sân chơi, khu vực thể thao phù hợp, tăng thời gian hoạt động thể chất trong chương trình học. Mục tiêu tăng thời gian vận động trung bình của học sinh lên trên 1 giờ/ngày trong 3 năm. Chủ thể thực hiện: Ban giám hiệu các trường tiểu học.
Theo dõi, đánh giá và nghiên cứu bổ sung: Thiết lập hệ thống giám sát tình trạng dinh dưỡng học sinh định kỳ để đánh giá hiệu quả các can thiệp và điều chỉnh chính sách phù hợp. Chủ thể thực hiện: Sở Y tế phối hợp với các trường học, định kỳ 6 tháng/lần.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Nhà quản lý giáo dục và y tế công cộng: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng chính sách, chương trình phòng chống TC-BP phù hợp với đặc điểm địa phương.
Giáo viên và cán bộ y tế trường học: Áp dụng kiến thức về các yếu tố nguy cơ và biện pháp can thiệp để hỗ trợ học sinh duy trì cân nặng hợp lý.
Phụ huynh và người chăm sóc trẻ: Nắm bắt thông tin về thói quen ăn uống, vận động và các yếu tố ảnh hưởng đến TC-BP để điều chỉnh lối sống gia đình.
Nghiên cứu sinh và học viên cao học chuyên ngành y học dự phòng, dinh dưỡng: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, kết quả và phân tích để phát triển các đề tài nghiên cứu liên quan.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao tỷ lệ thừa cân-béo phì ở học sinh Trà Vinh lại cao hơn mức trung bình quốc gia?
Do đặc điểm kinh tế xã hội, thói quen ăn uống và hoạt động thể lực chưa hợp lý, cùng với ảnh hưởng của môi trường gia đình và trường học, dẫn đến tỷ lệ TC-BP cao hơn.Yếu tố nào ảnh hưởng mạnh nhất đến tình trạng thừa cân-béo phì ở trẻ?
Nghiên cứu cho thấy nghề nghiệp và tình trạng TC-BP của cha mẹ, cùng với thói quen ăn nhanh và vận động thể lực là những yếu tố quan trọng nhất.Làm thế nào để giảm nguy cơ thừa cân-béo phì ở học sinh?
Cần xây dựng chế độ ăn cân đối, hạn chế thức ăn nhiều chất béo và đường, tăng cường vận động thể lực hàng ngày, đồng thời giáo dục nhận thức cho trẻ và gia đình.Có sự khác biệt về tỷ lệ TC-BP giữa nam và nữ không?
Có, tỷ lệ TC-BP ở học sinh nam cao hơn nữ với ý nghĩa thống kê, có thể do khác biệt về hoạt động thể lực và thói quen ăn uống.Phương pháp đánh giá TC-BP ở trẻ em được sử dụng như thế nào?
Sử dụng chỉ số BMI theo tuổi và giới tính, so sánh với bảng phân loại chuẩn của WHO để xác định trẻ thừa cân hoặc béo phì.
Kết luận
- Tỷ lệ thừa cân-béo phì ở học sinh tiểu học thành phố Trà Vinh năm 2020-2021 là 42,4%, cao hơn mức trung bình quốc gia.
- Giới tính, nghề nghiệp và tình trạng TC-BP của cha mẹ, cùng thói quen ăn nhanh là các yếu tố liên quan quan trọng đến TC-BP ở trẻ.
- Hoạt động thể lực chưa đạt mức khuyến nghị, góp phần làm tăng nguy cơ TC-BP.
- Cần triển khai các chương trình giáo dục dinh dưỡng và vận động thể lực đồng bộ tại trường học và gia đình.
- Tiếp tục theo dõi, đánh giá và nghiên cứu bổ sung để nâng cao hiệu quả phòng chống TC-BP trong cộng đồng.
Luận văn cung cấp cơ sở khoa học quan trọng cho các hoạt động can thiệp và chính sách y tế dự phòng tại địa phương. Đề nghị các cơ quan chức năng, nhà trường và gia đình phối hợp thực hiện các giải pháp nhằm cải thiện tình trạng TC-BP, bảo vệ sức khỏe thế hệ trẻ.