I. Tổng Quan Nghiên Cứu Tiểu Thuyết Lịch Sử Sau 1986
Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 dưới góc nhìn tự sự học là một lĩnh vực đầy tiềm năng. Tự sự học (Narratology) là một ngành nghiên cứu còn khá non trẻ so với nhiều lí thuyết văn học khác. Mặc dù khái niệm tự sự đã tồn tại rất lâu trong đời sống tinh thần nhân loại, song tự sự học xuất hiện như một phân môn nghiên cứu khoa học thì chính thức hình thành ở Pháp vào những năm 60 - 70 của thế kỉ XX. Lần đầu tiên khái niệm Narratologie được nhắc đến trong công trình Grammaire du Décaméron (Ngữ pháp Truyện mười ngày) của Tzvetan Todorov vào năm 1969. Một trong những đóng góp lớn của Todorov qua công trình này là ông đã đề xướng thuật ngữ Narratologie, một khoa học nghiên cứu tự sự, khoa học của truyện kể, là lí thuyết môn học cho đến lúc bấy giờ chưa hề có, một lí thuyết đúng nghĩa chứ không phải chỉ thuần túy kinh nghiệm. Sau khi được định hình ở Pháp, tự sự học đã nhanh chóng vượt qua biên giới, trở thành một trong những lĩnh vực học thuật được phổ biến quan tâm trên toàn thế giới.
1.1. Lịch Sử Phát Triển Tự Sự Học Trên Thế Giới
Sau khi được định hình ở Pháp, tự sự học đã nhanh chóng vượt qua biên giới, trở thành một trong những lĩnh vực học thuật được phổ biến quan tâm trên toàn thế giới. Khi chủ nghĩa giải cấu trúc ra đời, một số người vội vàng dự báo, tự sự học với tư cách là một phân nhánh của chủ nghĩa cấu trúc sớm muộn cũng có hồi kết. Thế nhưng, đến những năm 80 - 90 của thế kỷ XX, tự sự học vẫn giữ được niềm hứng thú, còn nguyên (thậm chí là gia tăng) sức hấp dẫn, và theo nhận định của một số học giả Mĩ, nó còn được “Phục hưng” và trung tâm nghiên cứu của nó đã vượt qua biên giới từ Pháp chuyển sang Mĩ. Hàng loạt các nhà nghiên cứu đã thành danh với nhiều công trình có giá trị, mở ra khuynh hướng mới giàu tiềm năng không chỉ đối với văn học nghệ thuật mà còn cho nhiều ngành khoa học xã hội khác.
1.2. Ứng Dụng Tự Sự Học Vào Nghiên Cứu Văn Học Việt Nam
Từ khi được giới thiệu vào Việt Nam, tự sự học đã được hưởng ứng rộng rãi của giới nghiên cứu, đặc biệt ở các trường đại học và viện nghiên cứu. Nhờ vai trò quan trọng trong việc giải mã văn chương dưới một hệ hình mới, tự sự học trở thành ngành nghiên cứu hứa hẹn những thành tựu lớn lao trong việc khám phá tầng sâu cấu trúc văn bản truyện kể. Nhiều công trình đã dành sự quan tâm đặc biệt đến lí thuyết tự sự học bằng việc dịch, giới thiệu những gương mặt ưu tú cùng hệ thống lí thuyết của các trường phái tự sự học Pháp, Nga, Anh, Mĩ, Đức, Trung Quốc… Đặc biệt xuất hiện ngày càng nhiều công trình ứng dụng lí thuyết vào thực tiễn văn học Việt Nam và thế giới.
II. Đổi Mới Tiểu Thuyết Lịch Sử Việt Nam Sau 1986
Tiểu thuyết lịch sử đã xuất hiện từ lâu trong văn học Việt Nam. Cùng những thăng trầm, biến động của dân tộc, thể tài này đã dần khẳng định được sứ mệnh cao cả, ý nghĩa lớn lao không chỉ trong đời sống văn học mà cả đời sống tinh thần người Việt. Với nhu cầu, thực tiễn ở mỗi thời kì khác nhau, tiểu thuyết lịch sử có khi trở thành một trong những thể loại chủ lưu, có lúc lại đánh mất vị thế, thậm chí không ít lần vắng mặt trên văn đàn và trong đời sống văn học nước nhà. Nhìn lại quá trình phát triển, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay trải qua ba chặng chính: (1) từ đầu thế kỉ đến năm 1945, (2) từ năm 1945 đến năm 1986, (3) từ năm 1986 đến nay.
2.1. Giai Đoạn Phát Triển Tiểu Thuyết Lịch Sử Trước 1986
Với cảm thức chiêm bái, ngưỡng vọng, phần lớn các nhà văn giai đoạn trước năm 1986 đều khai thác lịch sử theo hướng mô tả, minh họa chính sử, phù hợp với kinh nghiệm cộng đồng và tinh thần dân tộc. Mang sứ mệnh tôn vinh truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm với những tấm gương anh hùng, danh nhân hào kiệt, tiểu thuyết lịch sử đậm chất kí sự lịch sử mà nhạt chất tiểu thuyết.
2.2. Bối Cảnh Đổi Mới Văn Học Việt Nam Sau 1986
Sau năm 1986, văn học nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng có sự vận động và đổi mới trong điều kiện hoàn toàn khác biệt so với những năm tháng đất nước còn chiến tranh. Đời sống văn học nước nhà vận động, phát triển dưới tác động của hàng loạt nhân tố mang tính thời đại như ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng, chuyển biến trong thị hiếu tiếp nhận, giao lưu, tương tác đa chiều, đa phương của các nền văn hóa/văn học trong kỉ nguyên toàn cầu hóa.
2.3. Xu Hướng Tiểu Thuyết Lịch Sử Sau Đổi Mới
Với việc tự do sáng tác cùng với tinh thần dân chủ được khuyến khích mở rộng, lĩnh vực đề tài lịch sử như được hồi sinh và trở thành thể tài chủ chốt được nhiều nhà văn quan tâm chú ý. Tiểu thuyết bây giờ nghiêng theo mạch cảm thức phân tích, giả định gắn với chiêm nghiệm, luận giải lịch sử từ góc độ cá nhân. Nhiều tác phẩm tiêu biểu nằm trong dòng chảy này không chỉ mở rộng đề tài, chủ đề theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời tư thế sự, đời sống văn hoá, tâm linh, mà quan niệm của các nhà văn trên một số vấn đề về thể loại và về lịch sử cũng mang màu sắc thẩm mĩ mới.
III. Phân Tích Người Kể Chuyện Trong Tiểu Thuyết Lịch Sử
Luận án tập trung vận dụng những phương diện căn bản và quan trọng của nghệ thuật tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn tự sự, thời gian tự sự, kết cấu tự sự, diễn ngôn tự sự và các chiến lược tự sự vào khám phá đổi mới tư duy thể loại, phương thức tự sự của một trong những thể tài văn học nổi bật nhất sau Đổi mới - tiểu thuyết lịch sử. Dưới giác độ lí thuyết tự sự học, những đặc trưng của thể loại lần lượt được soi chiếu, qua đó nhiều vấn đề lí luận được giải mã một cách khoa học, thuyết phục, đem lại nhiều phát hiện thú vị cho người nghiên cứu cũng như những ai quan tâm đến văn học viết về đề tài lịch sử Việt Nam.
3.1. Sự Độc Đáo Của Người Kể Chuyện Sau 1986
Sự xuất hiện của người kể chuyện đa dạng và phức tạp hơn trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986. Các nhà văn đã thử nghiệm nhiều hình thức kể chuyện khác nhau, từ người kể chuyện ngôi thứ ba toàn tri đến người kể chuyện ngôi thứ nhất hạn tri, tạo ra những hiệu ứng nghệ thuật độc đáo.
3.2. Đổi Mới Hình Thức Kể Chuyện Ngôi Thứ Ba
Trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986, hình thức kể chuyện từ ngôi thứ ba đã có những đổi mới đáng kể. Các nhà văn không còn sử dụng người kể chuyện toàn tri một cách đơn thuần mà đã tạo ra những người kể chuyện có điểm nhìn hạn chế, mang đậm dấu ấn cá nhân, góp phần làm tăng tính chủ quan và đa chiều cho câu chuyện.
3.3. Thể Nghiệm Kể Chuyện Ngôi Thứ Nhất
Việc sử dụng hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 là một sự thể nghiệm táo bạo. Hình thức này cho phép người kể chuyện trực tiếp bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình về các sự kiện và nhân vật lịch sử, tạo ra một cái nhìn gần gũi, chân thực và đầy tính cá nhân.
IV. Nghệ Thuật Tổ Chức Thời Gian Trong Tiểu Thuyết
Nghệ thuật tổ chức thời gian trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 có nhiều đổi mới so với giai đoạn trước. Các nhà văn đã phá vỡ trật tự thời gian tuyến tính truyền thống, sử dụng các kỹ thuật như đảo thuật, dự thuật, hồi ức để tạo ra một cấu trúc thời gian phức tạp, đa chiều, phản ánh sự vận động không ngừng của lịch sử và ký ức.
4.1. Phá Vỡ Trật Tự Thời Gian Tuyến Tính
Trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986, các nhà văn thường sử dụng các kỹ thuật như đảo thuật, dự thuật, hồi ức để phá vỡ trật tự thời gian tuyến tính truyền thống. Điều này giúp tạo ra một cấu trúc thời gian phức tạp, đa chiều, phản ánh sự vận động không ngừng của lịch sử và ký ức.
4.2. Tạo Dựng Nhịp Độ Thời Gian Bằng Đoạn Ngưng
Kỹ thuật đoạn ngưng được sử dụng để tạo ra những khoảng lặng trong câu chuyện, giúp người đọc có thời gian suy ngẫm về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Đồng thời, nó cũng góp phần làm tăng tính kịch tính và hấp dẫn cho tiểu thuyết.
V. Diễn Ngôn Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Lịch Sử Việt Nam
Diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 có nhiều đổi mới so với giai đoạn trước. Các nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ đa dạng, phong phú, kết hợp giữa ngôn ngữ lịch sử, ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ cá nhân để tạo ra một giọng điệu riêng biệt, phản ánh sự phức tạp của lịch sử và đời sống.
5.1. Diễn Ngôn Của Người Kể Chuyện
Diễn ngôn của người kể chuyện trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 thường mang đậm dấu ấn cá nhân, thể hiện quan điểm, cảm xúc, suy nghĩ của người kể chuyện về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Điều này góp phần làm tăng tính chủ quan và đa chiều cho câu chuyện.
5.2. Diễn Ngôn Của Nhân Vật Lịch Sử
Diễn ngôn của nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 thường được xây dựng một cách công phu, tỉ mỉ, phản ánh tính cách, tâm lý, tư tưởng của nhân vật. Các nhà văn thường sử dụng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm để khắc họa sâu sắc thế giới bên trong của nhân vật.
VI. Kết Luận Về Nghiên Cứu Tiểu Thuyết Lịch Sử
Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 dưới góc nhìn tự sự học là một hướng đi đầy tiềm năng, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về sự vận động và phát triển của thể loại này trong bối cảnh văn học đương đại. Đồng thời, nó cũng góp phần làm phong phú thêm lý luận văn học Việt Nam.
6.1. Giá Trị Của Nghiên Cứu Tự Sự Học
Việc vận dụng lý thuyết tự sự học vào nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử giúp chúng ta có một cái nhìn hệ thống, khoa học về các yếu tố cấu thành nên tác phẩm, từ đó giải mã được những ý nghĩa sâu xa mà nhà văn muốn gửi gắm.
6.2. Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
Trong tương lai, cần tiếp tục nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 dưới nhiều góc độ khác nhau, như văn hóa học, xã hội học, tâm lý học, để có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về thể loại này.