I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U não thất bên là những khối u nằm ở các vị trí khác nhau của não thất bên như thùy trán, đỉnh, thái dương, chẩm, hoặc u phát triển từ tổ chức não xung quanh mà có 2/3 khối u nằm trong não thất bên. U tương đối hiếm gặp, với tần suất dao động từ 0,8-1,6%. Phần lớn u là lành tính hoặc có độ ác tính thấp, phát triển trực tiếp trong não thất bên hoặc từ bên ngoài xâm lấn vào. Các loại hay gặp nhất trong u não thất bên là: u màng não, u tế bào thần kinh trung ương, u màng não thất, u thần kinh đệm ít nhánh, u đám rối mạch mạc và u tế bào hình sao. U não thất bên gặp ở mọi lứa tuổi nhưng hay gặp hơn ở trẻ em. Về lâm sàng, u có nhiều đặc điểm khác với u ở các vị trí khác. U thường tiến triển chậm và không có triệu chứng đặc hiệu. Giai đoạn đầu, triệu chứng thường chỉ là những đợt nhức đầu sau đó tự khỏi, không có dấu hiệu thần kinh khu trú, hoặc nếu có thì xuất hiện rất muộn khi u đã to và chèn ép vào đường dẫn dịch não-tủy, gây tăng áp lực trong sọ. Vì vậy, u thường được phát hiện muộn, đôi khi phải phẫu thuật cấp cứu. Với sự phát triển của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính, chụp mạch máu và đặc biệt là chụp cộng hưởng từ, việc chẩn đoán u não thất bên tương đối dễ dàng và có độ chính xác cao. Tuy nhiên, việc lấy u triệt để vẫn còn là một thách thức với phẫu thuật viên do não thất bên nằm sâu trong các bán cầu đại não, có nhiều mạch máu nuôi dưỡng và liên quan đến các vùng chức năng thần kinh quan trọng, gây khó khăn hơn cho việc lấy bỏ u so với các vị trí khác.
1.1. Tình hình nghiên cứu u não thất bên trên thế giới
Năm 1854, Shaw là tác giả đưa ra một trong những báo cáo sớm nhất về u não thất bên ở bệnh nhân nam 63 tuổi bị liệt chân phải, mất ngôn ngữ và động kinh trong 27 năm. Các phân tích của Abbott và Courville sau đó cho thấy đây là u màng não ở vùng não thất bên bên trái. Tỉ lệ u não thất bên được ước tính là khoảng 0,75% các khối u nội sọ, con số này vẫn tương đối chính xác cho đến tận ngày nay. Mặc dù Shaw là người có những mô tả đầu tiên về các khối u não thất bên nhưng nhà phẫu thuật thần kinh tiên phong Walter Dandy mới là người có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực này. Ông là người khám phá ra kỹ thuật chụp bơm hơi não thất, chụp não thất với thuốc cản quang (1918); đã chẩn đoán và phẫu thuật cắt bỏ u thành công cho một trường hợp u nang trong não vào năm 1921. Năm 1971, Hounsfield và Ambrose cho ra đời chiếc máy chụp cắt lớp vi tính (CLVT) đầu tiên, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc chẩn đoán chính xác vị trí và kích thước khối u. Cùng với sự phát triển của phương tiện chẩn đoán hình ảnh CLVT và CHT, là các nghiên cứu và ứng dụng các phương tiện hiện đại như kính vi phẫu, dao siêu âm, hệ thống định vị thần kinh. Các nghiên cứu đều cho rằng phương pháp lựa chọn chính trong điều trị u não thất bên là phẫu thuật. Trong đó, "vi phẫu" là thuật ngữ đã được dùng rất sớm từ năm 1892.
1.2. Tình hình nghiên cứu u não thất bên tại Việt Nam
Cho đến nay, có rất ít đề tài nghiên cứu về u não thất bên, đa số là các nghiên cứu về u não nói chung, một số loại u thuộc não thất bên hoặc u có thể gặp ở nhiều vị trí trong đó có não thất bên như u màng não, u màng não thất, u đám rối mạch mạc. Nghiên cứu của Nguyễn Kim Chung và CS đánh giá kết quả phẫu thuật trên 31 bệnh nhân u não thất bên được chẩn đoán và điều trị phẫu thuật tại Khoa Phẫu thuật thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2016. Kết quả cho thấy: tỉ lệ lấy được toàn bộ u là 83,9%, kết quả tốt sau phẫu thuật chiếm 90,3%, tử vong 2 bệnh nhân (6,5%), tỉ lệ biến chứng khi theo dõi sau phẫu thuật là 35,5%. Những năm gần đây, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chẩn đoán đã phát triển nhanh chóng. Việc hiểu biết về triệu chứng, mô bệnh học, chẩn đoán và điều trị đã có những bước tiến vượt bậc. Vi phẫu thuật lấy u não đã khiến cho kết quả mổ tốt hơn, giảm thiểu biến chứng, cải thiện và kéo dài thời gian sống sau phẫu thuật. Tuy nhiên, ngoài khó khăn về cấu trúc giải phẫu đặc thù vùng não thất bên, thì phương pháp này cần trang thiết bị đắt tiền, dụng cụ vi phẫu phức tạp nên phẫu thuật viên phải nắm chắc về bệnh học của u vùng này và phải là người sử dụng thông thạo kính vi phẫu.
II. GIẢI PHẪU HỌC VÙNG NÃO THẤT BÊN
Não thất bên là kết quả của quá trình hình thành não trước của ống thần kinh. Quá trình phát triển này gồm ba giai đoạn: Tấm thần kinh, Rãnh thần kinh, và Ống thần kinh. Hệ thống não thất bao gồm: hai não thất bên, não thất III, não thất IV. Trong đó, não thất bên thông với não thất III qua lỗ Monro và não thất III thông với não thất IV qua cống Sylvius. Cấu trúc não thất bên là hình vòng cung lõm ở trước do chịu ảnh hưởng của tư thế gập trước của não. Mỗi não thất bên gồm năm phần: sừng trán, sừng chẩm, sừng thái dương, phần thân và phần tam giác ngã ba não thất. Các thành của não thất được tạo thành chủ yếu từ cấu trúc lân cận: đồi thị, vách trong suốt, thể chai, vòm não, nhân đuôi và thể tam giác bao quanh đồi thị. Hệ thống động mạch cung cấp máu cho não thất bên bao gồm động mạch mạch mạc trước, động mạch mạch mạc sau ngoài và động mạch mạch mạc sau trong. Hệ thống tĩnh mạch não thất bên được chia thành ba nhóm, không đi kèm động mạch: các tĩnh mạch nhóm ngoài, nhóm trong và nhóm mạch mạc. Các tĩnh mạch của thành trong, thành bên và mạch mạc đều có vai trò quan trọng trong việc dẫn lưu máu từ não thất bên.
2.1. Phôi thai học vùng não thất bên
Não thất bên được hình thành từ quá trình phát triển của ống thần kinh. Tấm thần kinh dày lên tạo thành rãnh thần kinh, sau đó hai bờ của rãnh thần kinh tiến lại gần nhau và sát nhập với nhau, khép kín thành ống thần kinh. Ống này có một đoạn hẹp và dài ở phía đuôi phôi gọi là ống tủy, là nguồn gốc của tủy sống. Đoạn rộng ở phía đầu phôi phình ra thành những túi não. Ở phôi người 5 tuần tuổi, các túi não phát triển khá mạnh, bao gồm: tủy sống, dây não và não cổ. Cấu trúc não thất bên là hình vòng cung lõm ở trước do chịu ảnh hưởng của tư thế gập trước của não. Mỗi não thất bên gồm năm phần: sừng trán, sừng chẩm, sừng thái dương, phần thân và phần tam giác ngã ba não thất.
2.2. Hệ thống mạch máu và thần kinh
Hệ thống động mạch mạch mạc trước cấp máu cho phần lớn não thất bên. Động mạch này chạy dưới ống thần kinh thị giác, bắt nguồn từ động mạch cảnh trong ở 76,6% các trường hợp. Động mạch mạch mạc sau ngoài cấp máu cho phần sau của sừng dưới và thân não thất bên. Động mạch này xuất phát từ động mạch não sau và đi phía ngoài và ngang qua khe mạch mạc. Động mạch mạch mạc sau trong có ít vai trò trong hệ thống mạch cấp máu cho não thất bên. Về hệ thống tĩnh mạch, các tĩnh mạch não thất bên được chia thành ba nhóm: nhóm ngoài, nhóm trong và nhóm mạch mạc. Các tĩnh mạch của thành trong, thành bên và mạch mạc đều có vai trò quan trọng trong việc dẫn lưu máu từ não thất bên.