Lý luận về tiền lương của C.Mác trong chủ nghĩa tư bản

Trường đại học

Trường Đại Học

Chuyên ngành

Kinh Tế

Người đăng

Ẩn danh

Thể loại

Luận Văn
52
0
0

Phí lưu trữ

30.000 VNĐ

Tóm tắt

I. Tổng Quan Lý Luận Tiền Lương Của Mác Giá Trị Đến Nay

Lý luận về tiền lương đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ lâu, bắt đầu từ William Petty, người đặt nền móng cho lý thuyết "quy luật sắt về tiền lương". Lý thuyết này phản ánh trình độ phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Khi sản xuất chưa phát triển, giai cấp tư sản phải dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp, buộc công nhân làm việc. Từ lý luận này, có thể thấy công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động của mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra, phần còn lại bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đây là mầm mống phân tích sự bóc lột giá trị thặng dư. Lý luận về tiền lương của Mác tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Những luận điểm của Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay, mặc dù chính sách tiền lương ở Việt Nam đã được cải cách. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng.

1.1. Sự Phát Triển Lý Luận Tiền Lương Trước C.Mác

Trước C.Mác, các nhà kinh tế như William Petty đã đưa ra những lý thuyết sơ khai về tiền lương, thường tập trung vào mức lương tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống của người lao động. Những lý thuyết này phản ánh điều kiện kinh tế và xã hội của thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản, khi lực lượng sản xuất còn kém phát triển và giai cấp tư sản tìm cách giữ chi phí lao động ở mức thấp nhất. Tuy nhiên, những lý thuyết này cũng đặt nền móng cho việc phân tích sự bóc lột trong quan hệ lao động, khi người lao động chỉ nhận được một phần nhỏ giá trị mà họ tạo ra.

1.2. Giá Trị Vượt Thời Gian Trong Lý Luận Tiền Lương Mác

Lý luận tiền lương của C.Mác không chỉ kế thừa mà còn phát triển và hoàn thiện những lý thuyết trước đó. Mác đã chỉ ra bản chất thực sự của tiền lương trong chủ nghĩa tư bản, vạch trần sự che đậy về việc tiền lương là giá cả của lao động. Dù chính sách tiền lương ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi, nhưng những nguyên lý cơ bản của Mác vẫn còn giá trị trong việc phân tích và giải quyết các vấn đề liên quan đến tiền lương và quan hệ lao động hiện nay. Việc hiểu và vận dụng đúng đắn những nguyên lý này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

II. Tiền Lương Dưới CNTB Giá Cả Sức Lao Động Hay Lao Động

Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian và nhận được tiền công. Số tiền này gọi là tiền lương. Số lượng tiền lương nhiều hay ít được xác định theo thời gian lao động hoặc lượng sản phẩm sản xuất ra. Hiện tượng này làm người ta lầm tưởng rằng tiền lương là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hóa và không thể là đối tượng mua bán. Cái mà công nhân bán và nhà tư bản mua không phải là lao động mà chính là sức lao động. Do đó, tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động. Bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là biểu hiện ra bề ngoài như là giá trị hay giá cả của lao động.

2.1. Vì Sao Tiền Lương Che Dấu Bản Chất Bóc Lột

Việc mua bán sức lao động là mua bán chịu. Hơn nữa, đặc điểm của hàng hóa - sức lao động không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản. Đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản việc bỏ tiền ra để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. Số lượng của tiền lương phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc sản phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta lầm tưởng rằng tiền lương là giá cả lao động. Tiền lương che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền lương che đậy bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản.

2.2. Phân Biệt Lao Động và Sức Lao Động Theo C.Mác

Theo C.Mác, lao động không phải là hàng hóa, vì nếu lao động là hàng hóa thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn về lý luận. Nếu lao động được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư, phủ nhận quy luật giá trị thặng dư. Nếu hàng hóa được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư, thì phủ nhận quy luật giá trị. Thay vào đó, Mác khẳng định rằng cái mà công nhân bán là sức lao động, tức là khả năng lao động của họ. Tiền lương là giá cả của sức lao động, và nó che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

III. Chức Năng Tiền Lương Đo Giá Trị Kích Thích Phân Công

Tiền lương có nhiều chức năng cơ bản. Thứ nhất, nó là thước đo giá trị, thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Thứ hai, nó giúp duy trì và phát triển sức lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Thứ ba, tiền lương kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực cho người lao động nâng cao năng suất và chất lượng công việc. Cuối cùng, nó thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, tái phân bổ lao động vào các khu vực có năng suất cao hơn. Tiền lương còn là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động, thúc đẩy hợp tác và nâng cao hiệu quả cạnh tranh.

3.1. Tiền Lương và Duy Trì Phát Triển Sức Lao Động

Theo Mác, tiền lương là biểu hiện giá trị sức lao động, là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động, theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá trị sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Để duy trì và phát triển sức lao động, người lao động còn phải sinh con, nuôi dưỡng con, nên những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra sức lao động phải gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho con cái họ. Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã hội nói chung và của người sử dụng lao động nói riêng.

3.2. Tiền Lương Thúc Đẩy Phân Công Lao Động Xã Hội

Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thỏa mãn các nhu cầu của người lao động. Khác với thị trường hàng hóa bình thường, cầu về lao động không phải là cầu cho bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm do lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hóa này. Tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ cần thiết phải sản xuất cũng như giá cả của nó. Do vậy, tiền lương phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động luôn luôn dẫn đến sự tái phân bổ lao động. Theo qui luật thị trường, lao động sẽ tái phân bổ vào các khu vực có năng suất cao hơn để nhận được các mức lương cao hơn.

IV. Hình Thức Tiền Lương Theo Thời Gian và Theo Sản Phẩm

Tiền lương có hai hình thức cơ bản: tiền lương tính theo thời gian và tiền lương tính theo sản phẩm. Tiền lương tính theo thời gian là hình thức tiền lương mà số lượng của nó phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tuần, tháng). Cần phân biệt lương giờ, lương ngày, lương tháng. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền lương tính theo thời gian. Tiền lương ngày và lương tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó thấp hay cao, vì còn tùy thuộc theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá đúng mức tiền lương không chỉ căn cứ vào lượng tiền, mà còn căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động.

4.1. Ưu và Nhược Điểm Của Tiền Lương Theo Thời Gian

Thực hiện chế độ tiền lương theo thời gian, nhà tư bản có thể không thay đổi lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao động do kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động. Trả lương kéo dài thời gian còn có lợi cho nhà tư bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hóa tiêu thụ. Tuy nhiên, hình thức này có thể không khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, vì thu nhập của họ không trực tiếp phụ thuộc vào lượng sản phẩm họ tạo ra.

4.2. Tiền Lương Theo Sản Phẩm Khuyến Khích Năng Suất

Tiền lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hoặc công việc mà công nhân làm ra. Hình thức này khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, vì thu nhập của họ tăng lên khi họ sản xuất được nhiều sản phẩm hơn. Tuy nhiên, nó cũng có thể dẫn đến tình trạng người lao động làm việc quá sức để tăng thu nhập, ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn lao động. Ngoài ra, việc định mức sản phẩm cũng có thể gây ra tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động.

V. Địa Tô Tư Bản Chủ Nghĩa Bóc Lột Trong Nông Nghiệp

Địa tô tư bản chủ nghĩa là sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông nghiệp làm thuê. Nó tồn tại ở nhiều hình thức: Địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối, địa tô cây đặc sản, địa tô về đất xây dựng, địa tô về hầm mỏ, địa tô về bãi cá. Địa tô chênh lệch hình thành do điều kiện sản xuất khác nhau trên các mảnh đất khác nhau, còn địa tô tuyệt đối hình thành do độc quyền tư hữu ruộng đất. Nguồn gốc của địa tô là một bộ phận của giá trị thặng dư, do lao động không công của công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra.

5.1. Địa Tô Chênh Lệch và Địa Tô Tuyệt Đối Phân Tích

Địa tô chênh lệch xuất hiện khi có sự khác biệt về độ màu mỡ của đất hoặc vị trí địa lý thuận lợi hơn, cho phép sản xuất với chi phí thấp hơn và thu được lợi nhuận cao hơn. Địa tô tuyệt đối phát sinh do quyền sở hữu tư nhân về đất đai, ngăn cản sự di chuyển tự do của tư bản vào nông nghiệp và cho phép chủ đất thu một phần giá trị thặng dư ngay cả trên những mảnh đất kém màu mỡ nhất. Cả hai loại địa tô này đều là hình thức bóc lột, khi chủ đất thu lợi nhuận từ lao động của người khác mà không đóng góp vào quá trình sản xuất.

5.2. Các Loại Địa Tô Khác Cây Đặc Sản Hầm Mỏ Xây Dựng

Ngoài địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối, còn có các loại địa tô khác như địa tô về cây đặc sản (thu được trên những đám đất trồng cây quý hiếm), địa tô hầm mỏ (thu được từ việc khai thác khoáng sản), địa tô đất xây dựng (thu được từ việc sử dụng đất cho mục đích xây dựng). Các loại địa tô này đều dựa trên cơ sở của địa tô nông nghiệp và phản ánh sự độc quyền về quyền sử dụng đất đai hoặc tài nguyên thiên nhiên.

VI. Vận Dụng Lý Luận Địa Tô Của Mác Trong Luật Đất Đai VN

Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những lý luận địa tô đó được Đảng và Nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn để xây dựng đất nước giàu mạnh. Lý luận địa tô của Mac đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành có liên quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế. Đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang. Ở đây thực hiện sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nước một cách hiệu quả.

6.1. Luật Đất Đai Việt Nam Sở Hữu Toàn Dân Quản Lý Nhà Nước

Luật Đất đai Việt Nam quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất. Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước cho thuê đất, giao đất trong luật này gọi chung là người sử dụng đất. Điều này thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận địa tô của Mác trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

6.2. Thuế Đất và Khác Biệt Với Địa Tô Phong Kiến Tư Bản

Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp những người thuê đất phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa vì thuế này tập trung vào ngân sách mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa. Các điều khoản trong Luật Đất đai quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, khuyến khích đầu tư và sử dụng đất hiệu quả.

05/06/2025

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Lý luận về tiền lương của cacmac trong chủ nghĩa tư bản
Bạn đang xem trước tài liệu : Lý luận về tiền lương của cacmac trong chủ nghĩa tư bản

Để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút

Tải xuống

Tài liệu có tiêu đề Lý luận về tiền lương của C.Mác trong chủ nghĩa tư bản cung cấp một cái nhìn sâu sắc về lý thuyết tiền lương theo quan điểm của C.Mác, nhấn mạnh mối quan hệ giữa lao động, giá trị và tiền lương trong nền kinh tế tư bản. Tác giả phân tích cách mà tiền lương không chỉ phản ánh giá trị lao động mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như cung cầu, sức mạnh thương lượng của người lao động và các chính sách kinh tế.

Đọc tài liệu này, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động của thị trường lao động và những yếu tố quyết định đến mức lương, từ đó có thể áp dụng kiến thức này vào việc đánh giá các chính sách tiền lương hiện hành. Để mở rộng thêm kiến thức, bạn có thể tham khảo tài liệu Chương 3, nơi cung cấp cái nhìn sâu hơn về giá trị và sự vận động của nó trong kinh tế thị trường. Những tài liệu này sẽ giúp bạn có cái nhìn toàn diện hơn về các khía cạnh của kinh tế học và lý thuyết tiền lương.