Tổng quan nghiên cứu

Huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum, là một trong những huyện nghèo miền núi với dân số khoảng 25.987 người, trong đó dân tộc Xơ Đăng chiếm đa số. Theo báo cáo năm 2016 của Trung tâm Y tế huyện, tỷ lệ sinh con tại nhà ở địa phương này còn rất cao, lên tới 58,3%, gấp gần ba lần so với tỷ lệ trung bình toàn tỉnh (22,3%). Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS), đặc biệt khi phần lớn các bà mẹ sinh con tại nhà không được cán bộ y tế hỗ trợ, chỉ có 13,9% được hỗ trợ y tế và chỉ 10,8% sử dụng gói đỡ đẻ sạch. Việc sinh con tại nhà với dụng cụ không tiệt trùng như dao lam (59,5%) hay cật nứa (14,8%) tiềm ẩn nguy cơ nhiễm khuẩn, băng huyết và tử vong mẹ con.

Mục tiêu nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng sinh con tại nhà của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng tại 3 xã Đăk Hà, Đăk Tờ Kan và Đăk Na thuộc huyện Tu Mơ Rông năm 2016, đồng thời xác định các yếu tố liên quan đến việc sinh con tại nhà. Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 11/2016 đến tháng 7/2017, với 293 bà mẹ tham gia khảo sát định lượng và 29 người tham gia nghiên cứu định tính. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chính sách và can thiệp nhằm giảm tỷ lệ sinh con tại nhà, nâng cao chất lượng CSSKSS cho đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên ba nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến việc sinh con tại nhà: (1) Yếu tố cộng đồng và xã hội, bao gồm phong tục sinh con tại nhà; (2) Yếu tố dịch vụ y tế, như khám thai, tiêm phòng uốn ván, tư vấn sinh con tại cơ sở y tế (CSYT), trình độ chuyên môn cán bộ y tế, bất đồng ngôn ngữ và khoảng cách đến CSYT; (3) Yếu tố đặc điểm nền tảng cá nhân và gia đình, gồm tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, số con, kinh tế gia đình và môi trường chung sống. Khung lý thuyết này giúp phân tích toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sinh con tại nhà của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng.

Các khái niệm chuyên ngành được sử dụng bao gồm: CSSKSS, làm mẹ an toàn (LMAT), gói đỡ đẻ sạch, cán bộ y tế (CBYT), cô đỡ thôn bản (CĐTB), mụ vườn, và các tai biến sản khoa như băng huyết sau sinh, tiền sản giật, nhiễm trùng hậu sản, vỡ tử cung và uốn ván sơ sinh.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu, áp dụng phương pháp định lượng và định tính. Đối tượng định lượng là toàn bộ 293 bà mẹ dân tộc Xơ Đăng sinh con trong năm 2016 tại 3 xã Đăk Hà, Đăk Tờ Kan và Đăk Na, được chọn theo phương pháp chọn mẫu cụm có chủ đích. Đối tượng định tính gồm 29 người có vai trò quyết định hoặc ảnh hưởng đến việc sinh con tại nhà, được chọn mẫu có chủ đích để phỏng vấn sâu (11 cuộc) và thảo luận nhóm (3 cuộc).

Dữ liệu định lượng được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp với phiếu điều tra chuẩn hóa, nhập liệu và phân tích bằng phần mềm SPSS 22. Các phân tích bao gồm mô tả tần số, kiểm định χ2, kiểm định t-test, phân tích đơn biến và hồi quy logistic đa biến để xác định các yếu tố liên quan đến sinh con tại nhà. Dữ liệu định tính được thu thập qua ghi âm, gỡ băng, mã hóa và phân tích theo chủ đề nhằm bổ sung và giải thích kết quả định lượng.

Thời gian thu thập số liệu thực địa từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2017, toàn bộ nghiên cứu kéo dài đến tháng 7 năm 2017. Nghiên cứu tuân thủ các quy định đạo đức, được Hội đồng Đạo đức Trường Đại học Y tế công cộng phê duyệt và có sự đồng thuận của các cơ quan chức năng địa phương.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỷ lệ sinh con tại nhà cao: Tỷ lệ sinh con tại nhà của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng tại 3 xã là 66,6%, cao gấp gần 3 lần so với tỷ lệ toàn tỉnh Kon Tum (22,3%). Trong đó, xã Đăk Tờ Kan có tỷ lệ cao nhất (73,5%), tiếp theo là Đăk Na (72,7%) và Đăk Hà (59,7%).

  2. Hỗ trợ y tế khi sinh con tại nhà thấp: Chỉ 13,9% bà mẹ sinh con tại nhà được cán bộ y tế hỗ trợ, 10,8% sử dụng gói đỡ đẻ sạch. Vẫn còn 59,5% sử dụng dao lam và 14,8% dùng cật nứa để cắt rốn, tiềm ẩn nguy cơ nhiễm khuẩn cao.

  3. Yếu tố liên quan đến sinh con tại nhà: Qua phân tích đa biến, các yếu tố có liên quan gồm: theo đạo Thiên Chúa giáo (chiếm 72% bà mẹ), phong tục sinh con tại nhà (33,8%), và khoảng cách từ nhà đến CSYT trên 5 km (31,1%). Ngoài ra, 47,7% bà mẹ khám thai dưới 3 lần, 14% không tiêm phòng uốn ván, và 11,6% có bất đồng ngôn ngữ với cán bộ y tế.

  4. Đặc điểm nhân khẩu học và kinh tế: Đa số bà mẹ dưới 35 tuổi (89,4%), trình độ học vấn thấp (83,3% ≤ THCS), làm nông nghiệp (98,3%), thuộc hộ nghèo hoặc cận nghèo (81,6%). Số con trung bình là 2-3, với 42,3% có từ 3 con trở lên.

Thảo luận kết quả

Tỷ lệ sinh con tại nhà cao phản ánh sự hạn chế trong tiếp cận dịch vụ y tế và ảnh hưởng sâu sắc của phong tục tập quán. Việc nhiều bà mẹ lựa chọn sinh con tại nhà do cảm nhận "dễ dàng", tiết kiệm chi phí và có người thân chăm sóc, đồng thời chuyển dạ nhanh cũng là nguyên nhân phổ biến. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu tại các vùng dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam và quốc tế, nơi phong tục và khoảng cách địa lý là rào cản lớn.

Tỷ lệ hỗ trợ y tế thấp và việc sử dụng dụng cụ không tiệt trùng cho thấy nguy cơ cao về tai biến sản khoa và nhiễm trùng sơ sinh. Điều này nhấn mạnh vai trò cần thiết của cô đỡ thôn bản và việc phổ biến gói đỡ đẻ sạch. Sự bất đồng ngôn ngữ và trình độ học vấn thấp cũng làm giảm hiệu quả truyền thông và vận động sử dụng dịch vụ y tế.

Phân tích số liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ sinh con tại nhà theo xã, bảng phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cung cấp cơ sở khoa học để xây dựng các can thiệp phù hợp, đồng thời so sánh với các nghiên cứu trong nước và quốc tế cho thấy tính nhất quán và đặc thù vùng miền.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường truyền thông vận động: Triển khai các chiến dịch truyền thông đa phương tiện, tập trung vào nhóm bà mẹ trẻ và gia đình, nhằm nâng cao nhận thức về lợi ích của sinh con tại CSYT và nguy cơ khi sinh tại nhà. Thời gian thực hiện trong 12 tháng, chủ thể là Trung tâm Y tế huyện phối hợp với các ban ngành địa phương.

  2. Phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản: Đào tạo, hỗ trợ và khuyến khích cô đỡ thôn bản hoạt động tại các thôn bản, đặc biệt ở những vùng xa CSYT. Cô đỡ thôn bản cần được trang bị kiến thức về đỡ đẻ sạch và kỹ năng sơ cứu tai biến sản khoa. Thời gian triển khai 6-12 tháng, do Trung tâm Y tế huyện và Sở Y tế tỉnh thực hiện.

  3. Khuyến khích sử dụng gói đỡ đẻ sạch: Cung cấp miễn phí hoặc giá ưu đãi gói đỡ đẻ sạch cho các bà mẹ sinh con tại nhà, đồng thời hướng dẫn sử dụng đúng cách. Chủ thể thực hiện là Trung tâm Y tế huyện phối hợp với các trạm y tế xã, thời gian 6 tháng đầu năm.

  4. Cải thiện tiếp cận dịch vụ y tế: Nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và tăng cường đội ngũ y tế tại các trạm y tế xã, đồng thời cải thiện giao thông vận tải để giảm khoảng cách và thời gian di chuyển đến CSYT. Chủ thể là chính quyền địa phương và Sở Y tế, thời gian dài hạn 1-3 năm.

  5. Giải quyết rào cản văn hóa và ngôn ngữ: Tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ y tế về kỹ năng giao tiếp đa văn hóa, sử dụng phiên dịch viên địa phương để giảm bất đồng ngôn ngữ, đồng thời phối hợp với già làng, trưởng thôn vận động thay đổi phong tục lạc hậu. Thời gian 12 tháng, do Trung tâm Y tế huyện và các tổ chức cộng đồng thực hiện.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cán bộ y tế và quản lý y tế địa phương: Nghiên cứu cung cấp dữ liệu thực tiễn và phân tích sâu sắc về thực trạng sinh con tại nhà, giúp xây dựng kế hoạch can thiệp phù hợp, nâng cao chất lượng dịch vụ CSSKSS.

  2. Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng: Luận văn là tài liệu tham khảo quý giá về phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính, cũng như khung lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến sinh con tại nhà.

  3. Các tổ chức phi chính phủ và cơ quan phát triển: Thông tin chi tiết về đặc điểm dân cư, phong tục tập quán và các rào cản trong tiếp cận dịch vụ y tế giúp thiết kế các chương trình hỗ trợ hiệu quả cho đồng bào dân tộc thiểu số.

  4. Chính quyền địa phương và ban ngành liên quan: Kết quả nghiên cứu giúp nhận diện các vấn đề xã hội, kinh tế và văn hóa ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ, từ đó đề xuất chính sách phát triển bền vững, giảm tỷ lệ sinh con tại nhà.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao tỷ lệ sinh con tại nhà ở huyện Tu Mơ Rông lại cao?
    Do nhiều yếu tố như phong tục tập quán lạc hậu, khoảng cách xa CSYT, trình độ học vấn thấp, kinh tế khó khăn và thói quen sinh con tại nhà từ các lần trước. Ngoài ra, chuyển dạ nhanh cũng khiến nhiều bà mẹ không kịp đến CSYT.

  2. Việc sinh con tại nhà có nguy hiểm không?
    Có, sinh con tại nhà với dụng cụ không tiệt trùng và thiếu sự hỗ trợ y tế chuyên nghiệp làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, băng huyết, tai biến sản khoa và tử vong mẹ con. Ví dụ, 59,5% bà mẹ sử dụng dao lam cắt rốn, dễ gây nhiễm trùng.

  3. Ai là người đỡ đẻ phổ biến khi sinh con tại nhà?
    Phần lớn là mẹ đẻ hoặc mẹ chồng (34,4%), mụ vườn (20,5%), hàng xóm (16,9%), cô đỡ thôn bản chỉ chiếm 13,4%, cán bộ y tế rất ít khi được gọi đến hỗ trợ.

  4. Các bà mẹ có được tư vấn và tiêm phòng uốn ván đầy đủ không?
    Tỷ lệ được tư vấn đến CSYT sinh con là 87,4%, tiêm phòng uốn ván đạt 86%, nhưng vẫn còn 14% bà mẹ không được tiêm phòng, chủ yếu do bận rộn hoặc không nhớ lịch tiêm.

  5. Làm thế nào để giảm tỷ lệ sinh con tại nhà ở vùng dân tộc thiểu số?
    Cần tăng cường truyền thông vận động, phát triển mạng lưới cô đỡ thôn bản, cung cấp gói đỡ đẻ sạch, cải thiện cơ sở vật chất và giao thông, đồng thời giải quyết các rào cản văn hóa và ngôn ngữ để bà mẹ tin tưởng và tiếp cận dịch vụ y tế.

Kết luận

  • Tỷ lệ sinh con tại nhà của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng tại 3 xã huyện Tu Mơ Rông năm 2016 là 66,6%, cao gấp gần ba lần tỷ lệ toàn tỉnh.
  • Việc sinh con tại nhà chủ yếu do phong tục, cảm nhận dễ dàng, chuyển dạ nhanh và khoảng cách xa CSYT.
  • Hỗ trợ y tế khi sinh con tại nhà còn thấp, với tỷ lệ sử dụng gói đỡ đẻ sạch chỉ 10,8%, nhiều bà mẹ sử dụng dụng cụ không tiệt trùng.
  • Các yếu tố liên quan gồm tôn giáo, phong tục, khoảng cách đến CSYT, trình độ học vấn và kinh tế gia đình.
  • Nghiên cứu đề xuất các giải pháp truyền thông, phát triển cô đỡ thôn bản, cung cấp gói đỡ đẻ sạch và cải thiện tiếp cận dịch vụ y tế nhằm giảm tỷ lệ sinh con tại nhà.

Triển khai các giải pháp đề xuất trong vòng 12 tháng, đồng thời tiến hành đánh giá hiệu quả can thiệp định kỳ. Các cơ quan chức năng và cộng đồng cần phối hợp chặt chẽ để nâng cao nhận thức và cải thiện dịch vụ CSSKSS.

Các nhà quản lý y tế, cán bộ cộng đồng và tổ chức xã hội hãy cùng chung tay thực hiện các biện pháp can thiệp nhằm bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, hướng tới mục tiêu làm mẹ an toàn và giảm tử vong mẹ con tại vùng dân tộc thiểu số.