I. Tổng Quan Về Tự Sự Học Gerald Genette Trong Văn Học
Đóng góp của G. Genette đối với tự sự học chính là những diễn giải cụ thể về diễn ngôn trần thuật. Ông khẳng định “truyện kể đối với tôi chỉ là một hình thức của diễn ngôn”. Nghiên cứu truyện kể qua lời nói trong hoạt động giao tiếp khiến kỹ thuật nghiên cứu tự sự của ông trở nên thiên biến vạn hóa. Genette không chỉ chia nhỏ được bản đồ tự sự mà còn làm rõ đến chi tiết các bình diện. Đây là một trong những thành tựu nổi bật của ông nhằm nghiên cứu cấu trúc lời kể và cách kể. Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến ba khái niệm lớn của truyện kể: story (câu chuyện), narrative (cốt truyện), và narration (kể chuyện). Khi nhiều nhà nghiên cứu còn chưa thống nhất định nghĩa về tự sự, ông nhận định: “Tự sự là trình bày một sự kiện hay chuỗi sự kiện có thực hay hư cấu, bằng phương tiện ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ tự sự”. Như vậy, truyện kể nói chung tương ứng với một loạt các sự kiện và hành động do ai đó kể lại, và đại diện dưới hình thức cuối cùng chính là tạo ra một cốt truyện bằng mô hình ngôn ngữ tự sự. Theo Forter, “Truyện là sự trần thuật về một chuỗi sự kiện được sắp xếp theo một trình tự thời gian nào đó. Một cốt truyện cũng là sự trần thuật về chuỗi sự kiện, nhưng điểm nhấn rơi vào quan hệ nhân quả”.
1.1. Ba Khái Niệm Cốt Lõi Trong Tự Sự Học Genette
Genette tập trung vào ba khái niệm chính: câu chuyện (story), cốt truyện (narrative), và kể chuyện (narration). Câu chuyện là chuỗi các sự kiện theo trình tự thời gian. Cốt truyện là cách các sự kiện được sắp xếp và trình bày trong tác phẩm. Kể chuyện là hành động trần thuật, bao gồm người kể chuyện, điểm nhìn, và giọng điệu. Ba yếu tố này tương tác lẫn nhau để tạo nên diễn ngôn tự sự độc đáo của mỗi tác phẩm. Việc phân tích mối quan hệ giữa ba yếu tố này giúp ta hiểu sâu hơn về cấu trúc và ý nghĩa của tác phẩm. Theo Trần Đình Sử, tự sự học được hiểu như là lĩnh vực nghiên cứu các cơ chế bên trong của cốt truyện.
1.2. Diễn Ngôn Tự Sự Công Trình Tiêu Biểu Của Genette
Năm 1972, cuốn “Discours du recit: Essai de Methode” (Diễn ngôn tự sự) được G. Genette xuất bản bằng tiếng Pháp. Đây được coi là công trình tiêu biểu trong nghiên cứu tự sự học cấu trúc. Công trình nghiên cứu được chia làm 5 chương, cụ thể hóa bằng ba phạm trù cơ bản: thời (time), thái (mood) và thức (voice). Trong đó, Genette lưu tâm nhất ở khái niệm thời (time), ông giới thuyết rõ phạm trù thời trong ba chương đầu bao gồm: trật tự (order), trường độ (duration), tần suất (frequency) đã phần nào phân khu lại mảnh đất mà Genette chọn trong quá trình giới thuyết về tự sự học của riêng mình.
II. Thời Gian Tự Sự Phân Tích Theo Gerald Genette Chi Tiết
Thời gian là nhân tố nghệ thuật làm nền tảng cho kết cấu truyện kể. Trong nghiên cứu tự sự thì thời gian lại càng trở thành mảnh đất vàng để các nhà lập thuyết ghi nhận những kĩ thuật đan cài giữa thời gian cái được kể và thời gian của truyện kể. Bởi mỗi văn bản tự sự, tức mỗi truyện kể luôn là chuỗi thời gian hai lần của thời gian. Mà ở đây, việc xử lí mối quan hệ đối xứng trên sẽ khiến cho truyện kể giàu tính nghệ thuật hơn, và cũng là lúc đánh dấu bước phát triển của nghệ thuật tự sự khi văn học bắt đầu bẻ gãy kết cấu tuyến tính. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì thời gian nghệ thuật được định nghĩa: “là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó, “xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian […] Thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quy về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi”.
2.1. Ba Loại Thời Gian Trong Truyện Theo Genette
Genette chia thời gian trong truyện thành ba loại: thời gian câu chuyện (time story), thời gian truyện kể (time of narration) và thời gian kể chuyện (thời gian diễn ngôn – discourse time). Với Genette, thời gian của câu chuyện là thời gian theo niên biểu của các sự kiện, nó được sắp đặt theo thứ tự trước sau nhất định và tuân theo qui luật nhân quả sự việc, cái gì có trước sẽ được kể trước. “Người đọc (người nghe) truyện khi tiếp nhận một truyện nào dù thời gian có bị xáo trộn đến mấy cũng phải lặp lại được khung thời gian này, trên cơ sở đó mà đối chiếu với thời gian của truyện và để phân tích giá trị nghệ thuật”. Thời gian truyện kể là thời gian sắp đặt mang tính chủ quan của người kể chuyện, họ có thể là người trực tiếp tham gia hay chỉ chứng kiến câu chuyện được kể. Và chuyện thì luôn xảy ra trong quá khứ, còn người kể dù đứng trong khung thời gian nào cũng vẫn là cảm thức của hiện tại.
2.2. Sự Kiện Trong Tự Sự Góc Nhìn Từ Lotman và Tamarchenco
IU. Lotman trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật xác định sự kiện qua hai định nghĩa “Trong văn bản, sự kiện là sự di chuyển của nhân vật qua ranh giới của một trường nghĩa” và “Sự kiện được xem là cái xảy ra, mặc dù có thể không xảy ra […], là sự vượt qua cái ranh giới bị cấm kị mà cấu trúc phi truyện kể đã xác lập”. Tamarchenco cho rằng: “Sự kiện truyện kể là sự dịch chuyển bên ngoài hay bên trong của nhân vật (chuyến đi, hành động, hành vi tinh thần) vượt qua cái ranh giới phân chia không gian được miêu tả thành từng phần hay phạm vị, từng thời điểm của thời gian nghệ thuật, nhằm thực hiện mục đích hay từ bỏ nó hoặc khắc phục các trở ngại”. Những định nghĩa này giúp ta hiểu rõ hơn về vai trò của sự kiện trong việc cấu thành thời gian tự sự.
III. Alice Munro Bậc Thầy Truyện Ngắn Và Phong Cách Tự Sự
Nữ văn sĩ người Canada Alice Munro, có tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw, là chủ nhân của giải Nobel văn học năm 2013 khi bà 82 tuổi. Đây là giải Nobel thứ 13 được trao cho phụ nữ và cũng là giải Nobel văn học duy nhất dành cho thể loại truyện ngắn trong 113 giải được trao tính đến năm 2017. Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá bà là “Bậc thầy của truyện ngắn đương đại”. Bà sinh năm 1931, sống ở Wingham, Tây Nam Ontario. Bắt đầu cầm bút khi còn ở độ tuổi vị thành niên nhưng đến năm 1968 Alice Munro mới xuất bản tuyển tập truyện ngắn đầu tay Điệu vũ của những cái bóng hạnh phúc (Dance of the Happy Shades). Nổi tiếng với những sáng tác truyện ngắn có chiều sâu, sự tinh tế, khả năng cảm hóa; nữ văn sĩ đã xuất bản 14 tập truyện ngắn.
3.1. Giải Nobel Văn Học Và Sự Nghiệp Văn Chương Của Munro
Alice Munro đã làm mới thể loại truyện ngắn bằng những dạng kết cấu thời gian và kết cấu tình huống truyện tinh tế. Với sự đồng cảm, cái nhìn đầy chân thật của tác giả, sự tinh tế đủ rộng để đi sâu vào tâm hồn mỗi con người, 31 truyện ngắn in trong 3 tập truyện kể trên của Munro là đối tượng nghiên cứu giàu tiềm năng gợi mở để làm rõ những kỹ thuật tự sự độc đáo của tác giả này và những đóng góp của bà đối với lịch sử phát triển của truyện ngắn phương Tây. Với những lí do nêu trên, chúng tôi đã chọn lí thuyết tự sự của Gerald Genette để đọc hiểu tác phẩm của Alice Munro.
3.2. Phạm Vi Nghiên Cứu 31 Truyện Ngắn Của Alice Munro
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là diễn ngôn tự sự của Gerald Genette, từ đó với những khái niệm cụ thể của diễn ngôn tự sự nghiên cứu được để đọc hiểu truyện ngắn cuả Alice Munro nhằm lí giải những hấp lực mà văn chương của bà đem đến cho người đọc, cũng là có được câu trả lời cho những bí ẩn bề sâu mà cấu trúc diễn ngôn tự sự trong các tác phẩm bà tạo dựng. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong 31 truyện ngắn của Alice Munro được in qua ba tập truyện ngắn đã giới thiệu tại Việt Nam bao gồm: Ghét, thân, thương, yêu, cưới; Trốn chạy, Cuộc đời dấu yêu trong phần ứng dụng. Phần lí luận sẽ nghiên cứu cụ thể và khái quát để giới thuyết về diễn ngôn tự sự mà Gerald Genette đã viết.
IV. Phân Tích Tự Sự Trong Truyện Ngắn Alice Munro Phương Pháp
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để phân tích tự sự trong truyện ngắn Alice Munro. Phương pháp hệ thống kết nối những hệ thống ý trong quá trình khảo sát 31 truyện ngắn của Alice Munro để đi tìm được hằng số thông qua những biến số trong diễn ngôn tự sự. Phương pháp loại hình: diễn ngôn tự sự của Gerald Genette cũng như truyện ngắn Munro sẽ cho phép phương pháp loại hình tự sự học bằng những khái niệm vốn có của mình để minh giải một cách rõ nét trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp so sánh: bằng phương pháp này tìm ra được nét tương đồng bởi đây là định đề cuối cùng mà luận văn muốn hướng đến trong việc giới thiệu khung lí thuyết cũng như giải mã thành công của phần thực hành.
4.1. Phương Pháp Hệ Thống Và Loại Hình Trong Nghiên Cứu
Phương pháp hệ thống giúp kết nối các ý tưởng và yếu tố trong truyện ngắn của Munro, tìm ra những điểm chung và khác biệt. Phương pháp loại hình sử dụng các khái niệm của tự sự học để phân loại và giải thích các yếu tố tự sự trong tác phẩm. Cả hai phương pháp này đều quan trọng để hiểu sâu hơn về cấu trúc và ý nghĩa của truyện ngắn Munro.
4.2. Phương Pháp So Sánh Và Phân Tích Đối Chiếu
Phương pháp so sánh giúp tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa Alice Munro và các nhà văn khác. Phương pháp phân tích - đối chiếu được sử dụng để so sánh vị trí của truyện ngắn Alice Munro trong một vài phân đoạn khi đặt bên cạnh các nhà văn xuất sắc trước đó và đương thời của truyện ngắn phương Tây. Những phương pháp này giúp đánh giá vị trí và đóng góp của Munro trong lịch sử văn học.
V. Đóng Góp Của Luận Văn Về Tự Sự Học Và Alice Munro
Với đề tài nghiên cứu, chúng tôi mong muốn giới thiệu và thử nghiệm ứng dụng lý thuyết tự sự của Gerald Genette trên một hiện tượng văn học cụ thể. Thêm vào đó, đề tài có thể góp phần giải mã được thành công trong cấu trúc truyện kể của Alice Munro, nhất là kết cấu thời gian và kết cấu tình huống văn chương của bà. Việc phân tích kết cấu bề mặt văn bản sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn thấu đáo hơn và lí giải trọn vẹn hơn về những hấp lực mà văn chương bà đem đến. Ngoài việc lí giải chính các tác phẩm của bà, chúng tôi còn mong muốn đem đến những lí giải về sự tương đồng cũng như khác biệt của nữ nhà văn Canada này so với các bậc thầy truyện ngắn Phương Tây đi trước như Ernest Hemingway; O. Henry; James Joyce; Guy De Maupassant; Anton Tsekkov…
5.1. Ứng Dụng Lý Thuyết Tự Sự Của Genette Vào Thực Tiễn
Luận văn này mong muốn giới thiệu và ứng dụng lý thuyết tự sự của Gerald Genette vào việc phân tích truyện ngắn của Alice Munro. Điều này giúp làm sáng tỏ những kỹ thuật tự sự độc đáo mà Munro sử dụng, cũng như những đóng góp của bà cho thể loại truyện ngắn.
5.2. Giải Mã Thành Công Trong Cấu Trúc Truyện Kể Của Munro
Luận văn góp phần giải mã thành công trong cấu trúc truyện kể của Alice Munro, đặc biệt là kết cấu thời gian và kết cấu tình huống văn chương. Việc phân tích này giúp hiểu rõ hơn về những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Munro, cũng như vị trí của bà trong văn học đương đại.