I. Tổng Quan Về Công Ước La Haye 1993 Ý Nghĩa Mục Tiêu
Nuôi con nuôi là một vấn đề nhân đạo sâu sắc, trở thành mối quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế. Mục đích duy nhất là bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em, mang lại cho trẻ em một mái ấm gia đình với sự thương yêu của cha mẹ nuôi. Trong xu thế toàn cầu hóa, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một tất yếu, đó cũng là vấn đề mang tính pháp lý quốc tế đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ các nước. Nghiên cứu nội dung cũng như quá trình thực hiện các quy định pháp luật hiện hành, các Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi, các công ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã tham gia để rút ra những bài học kinh nghiệm, nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý trong hoạt động cho nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài giúp chúng ta hợp tác quốc tế có hiệu quả trong lĩnh vực này. Từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực và Việt Nam tham gia Công ước Lahay 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (Công ước Lahay 1993) vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài có xu hướng phát triển mới, đây là hệ quả của sự thay đổi chính sách pháp luật rất cần được nghiên cứu kịp thời và nghiêm túc.
1.1. Lịch Sử Hình Thành và Phát Triển của Công Ước La Haye
Năm 1965, Ủy ban Công ước Lahay đã tiến hành thảo luận với một số quốc gia và thông qua Công ước năm 1965 quy định về thẩm quyền, luật áp dụng và việc công nhận các văn bản pháp luật liên quan đến con nuôi. Việc thông qua Công ước 1965 đã góp phần quan trọng giải quyết vấn đề nuôi con nuôi giữa các nước, thống nhất về nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi. Đây cũng là Công ước đầu tiên của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. Trong hơn 20 năm kể từ ngày Công ước 1965 được thông qua, hàng triệu trẻ em đã tìm được mái ấm, được chăm sóc và yêu thương trong môi trường gia đình, được học hành và quan trọng nhất là quyền của những trẻ em này được các quốc gia thành viên công nhận và đảm bảo thực hiện.
1.2. Mục Tiêu và Phạm Vi Nghiên Cứu về Nuôi Con Nuôi Quốc Tế
Luận văn của tác giả hướng tới mục tiêu sau: Phân tích đánh giá quá trình thực hiện Công ước Lahay của Việt Nam từ khi tham gia công ước. Làm sáng tỏ những điểm mới trong quy định pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp luật về con nuôi có yếu tố nước ngoài trước và sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành.
II. Nội Dung Cốt Lõi Công Ước La Haye 1993 Phân Tích Chi Tiết
Công ước Lahay 1993 gồm Lời nói đầu, 7 chương, 48 điều, với các nội dung chính quy định về các vấn đề như điều kiện nhận nuôi con nuôi giữa các nước; Cơ quan Trung ương có thẩm quyền và các tổ chức được chỉ định hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi; Yêu cầu về thủ tục cho và nhận con nuôi nước ngoài; Công nhận việc nuôi con nuôi và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi; Những quy định chung nhất áp dụng cho mọi quốc gia thành viên (đặc biệt với những nước có thể chế liên bang hoặc chính trị đặc biệt).
2.1. Các Nguyên Tắc Cơ Bản của Công Ước La Haye 1993
Công ước Lahay 1993 có những nguyên tắc cơ bản sau đây (là những nguyên tắc có giá trị bắt buộc – jus cogens – đối với mọi quốc gia thành viên; pháp luật trong nước không được trái với những nguyên tắc này): Bất cứ biện pháp nào tiến hành để bảo vệ trẻ em phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em. Tôn trọng quyền ưu tiên của trẻ em là được cha mẹ đẻ chăm sóc. Nếu trẻ em vì một lý do nào đó mà không được cha mẹ đẻ chăm sóc, thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm bảo vệ trẻ em, phải xem xét tất cả những giải pháp chăm sóc lâu dài khác nhau để giúp trẻ em có mái ấm gia đình, kể cả bằng những biện pháp thay thế như con nuôi, giám hộ hoặc được chăm sóc ở trung tâm nuôi dưỡng.
2.2. Điều Kiện Cần Thiết để Nhận Con Nuôi Quốc Tế
Công ước Lahay 1993 quy định trẻ em được nhận làm con nuôi và cha mẹ nuôi phải thường trú ở các nước khác nhau. Công ước không áp dụng đối với trường hợp trẻ em thường trú ở một quốc gia thành viên và cha mẹ nuôi thường trú ở một quốc gia không phải là thành viên và ngược lại. Công ước chỉ áp dụng cho việc nuôi con nuôi với một cặp vợ chồng khác giới hoặc một người đã hoặc chưa kết hôn. Công ước chỉ áp dụng đối với trường hợp nuôi con nuôi làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ và con, không phụ thuộc vào việc quan hệ pháp lý của trẻ em với cha mẹ đẻ đã chấm dứt hay chưa.
2.3. Vai Trò của Cơ Quan Trung Ương trong Nuôi Con Nuôi
Công ước Lahay 1993 có yêu cầu các quốc gia thành viên phải lập một cơ quan có thẩm quyền ở cấp Trung ương về vấn đề con nuôi quốc tế, cả ở Nước nhận và Nước gốc, nhằm tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin và giải quyết các vấn đề phát sinh. Đây là quy định bắt buộc, giống như mô hình của một loạt Công ước đa phương khác về tư pháp quốc tế (Như Công ước Lahay ngày 15/11/1965 về tống đạt các giấy tờ pháp lý ở nước ngoài; Công ước Lahay ngày 18/03/1970 về việc thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự, thương mại; Công ước Lahay ngày 25/10/1980 về các kía cạnh dân sự của việc bắt cóc trẻ em; Công ước châu Âu ngày 20/05/1980 về công nhận và thi hành các quyết định liên quan đến việc giám hộ và phục hồi giám hộ trẻ em; Công ước liên Mỹ ngày 14/07/1989 về việc hồi hương trẻ em).
III. So Sánh Pháp Luật Việt Nam và Công Ước La Haye 1993
Từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực và Việt Nam tham gia Công ước Lahay 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (Công ước Lahay 1993) vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài có xu hướng phát triển mới, đây là hệ quả của sự thay đổi chính sách pháp luật rất cần được nghiên cứu kịp thời và nghiêm túc.
3.1. Giai Đoạn Trước và Sau Khi Ban Hành Luật Nuôi Con Nuôi
Thời kỳ trước khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành. Quy định của pháp luật. Thực tiễn công tác thi hành pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Ban hành Luật Nuôi con nuôi. Thời kỳ từ khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành. Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
3.2. Điểm Tương Đồng và Bất Cập Giữa Luật Việt Nam và Công Ước
Những điểm tương đồng và bất cập của pháp luật Việt Nam so với Công ước Lahay 1993.
IV. Thực Trạng Thực Hiện Công Ước La Haye tại Việt Nam Đánh Giá
Việc thực hiện Công ước La Haye tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc và bất cập cần được giải quyết để nâng cao hiệu quả.
4.1. Kết Quả Đạt Được trong Quá Trình Thực Hiện Công Ước
Về số lượng trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài. Về sự phối hợp của các cơ quan hữu quan. Về hợp tác giữa cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hữu quan. Việc thực hiện các quy định về tài chính liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Về việc hợp tác với các nước thành viên Công ước Lahay 1993.
4.2. Khó Khăn và Bất Cập trong Thực Hiện Công Ước La Haye
Đối với việc lập danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế và danh sách trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài. Công tác kiểm tra xác minh hồ sơ, lấy ý kiến của cha/mẹ đẻ hoặc người giám hộ và xác nhận trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài. Công tác giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Việc giải quyết nuôi con nuôi thực tế có yếu tố nước ngoài.
4.3. Nguyên Nhân của Hạn Chế và Bất Cập Hiện Tại
Nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan.
V. Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Thực Thi Công Ước La Haye
Để nâng cao hiệu quả thực thi Công ước La Haye 1993 tại Việt Nam, cần có những giải pháp đồng bộ và toàn diện, tập trung vào hoàn thiện pháp luật, tăng cường cơ chế phối hợp, nâng cao năng lực cán bộ và tuyên truyền giáo dục.
5.1. Hoàn Thiện Pháp Luật Quốc Gia về Nuôi Con Nuôi Quốc Tế
Hoàn thiện pháp luật quốc gia về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
5.2. Tăng Cường Cơ Chế Phối Hợp Giữa Các Cơ Quan
Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức.
5.3. Nâng Cao Năng Lực Cán Bộ và Tuyên Truyền Giáo Dục
Tăng cường công tác kiểm tra thanh tra các hoạt động nuôi con nuôi quốc tế và tuyên truyền giáo dục phổ biến kiến thức về vấn đề nhân đạo này. Tăng cường nguồn lực cán bộ. Tiếp tục nâng cao trình độ, nhận thức của cán bộ làm công tác nuôi con nuôi, ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Bảo đảm kinh phí hoạt động, đầu tư thích đáng cho việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.