I. Tổng Quan Nghiên Cứu Tâm Lý Đầu Tư Tại NEU 55 ký tự
Nghiên cứu tâm lý đầu tư là lĩnh vực tài chính hành vi, sử dụng các lý thuyết tâm lý học để giải thích các hiện tượng bất thường trên thị trường chứng khoán. Tài chính học hành vi mô phỏng hành vi thị trường bằng các cuộc thử nghiệm đơn giản. Ví dụ, khi đối diện với lựa chọn chắc chắn nhận 50.000 đồng hoặc tung đồng xu để có cơ hội nhận 100.000 đồng, nhiều người chọn phương án an toàn. Tuy nhiên, khi đối diện với nguy cơ mất 50.000 đồng chắc chắn hoặc tung đồng xu để tránh mất tiền, họ lại chấp nhận rủi ro. Điều này cho thấy con người coi trọng việc bù đắp khoản lỗ hơn là kiếm lợi nhuận. Tài chính hành vi bổ sung vào các lý thuyết tài chính cơ bản bằng cách giải thích quá trình ra quyết định của nhà đầu tư. Nó tìm cách hiểu và dự đoán quá trình ra quyết định liên quan đến hệ thống thị trường tài chính, đồng thời tập trung vào việc áp dụng các nguyên lý tâm lý và kinh tế để cải thiện việc ra quyết định tài chính (Olsen, 1998).
1.1. Mục tiêu của tài chính hành vi trong đầu tư
Mục tiêu của tài chính hành vi là giải thích các hiện tượng bất thường trên thị trường chứng khoán mà các lý thuyết tài chính truyền thống không thể giải thích được. Nó tập trung vào việc hiểu cách các nhà đầu tư đưa ra quyết định, và làm thế nào những quyết định này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý. Tài chính hành vi cũng tìm cách cải thiện việc ra quyết định tài chính bằng cách áp dụng các nguyên lý tâm lý và kinh tế. Ví dụ, nó có thể giúp các nhà đầu tư tránh các bẫy tâm lý phổ biến như thiên kiến nhận thức và hiệu ứng đám đông.
1.2. Các nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi
Lý thuyết tài chính hành vi chỉ ra rằng cơ chế điều chỉnh thị trường không phải lúc nào cũng xảy ra, nghĩa là có những trường hợp nhà đầu tư hợp lý không thể chiến thắng nhà đầu tư bất hợp lý. Khi đó, thị trường sẽ không hiệu quả, hay “sai”. Lý thuyết tài chính hành vi là sự phát triển kết hợp tâm lý học vào tài chính. Với những tác phẩm nền tảng của (Kahneman & Tversky, 1979), (Thaler, 1985) và đặc biệt là (Shiller & Robert, 1987) với quyển sách nổi tiếng “Irrational Exuberance” của (R. Shiller, 2000), dự báo chính xác sự sụp đổ của thị trường cổ phiếu toàn cầu không lâu sau đó, đã tạo bước ngoặt lớn cho những nhà nghiên cứu tài chính hành vi liên tục đưa ra các nghiên cứu mới.
II. Thách Thức Nghiên Cứu Tâm Lý Đầu Tư NEU Hiện Nay 59 ký tự
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời vào ngày 28 tháng 7 năm 2000. Sau gần 12 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã thu hút được 692 công ty niêm yết với tổng vốn hóa thị trường hơn 25 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm 2011 (theo báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước). Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn đối diện với rất nhiều khó khăn. Đầu tiên phải kể đến những quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước liên quan tới biên độ dao động giá được bó trong phạm vi hẹp và đã được điều chỉnh nhiều lần gây nhầm lẫn cho các nhà đầu tư. Tâm lý của các nhà đầu tư trong khi thời gian giao dịch nhìn chung là dễ bị dao động mạnh và rất dễ nhạy cảm với thông tin.
2.1. Tính bất ổn của thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam được biết tới như là một trong những thị trường hoạt động tốt nhất trên thế giới (Money, 2006) hay cũng là một trong những thị trường hoạt động tệ nhất của châu Á (HSBC, 2009). Tính cấp thiết của đề tài Những nghiên cứu gần đây cho thấy các hiện tượng bất thường của giá chứng khoán xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin trên thị trường, giữa những nhà đầu tư cá nhân và những nhà đầu tư tổ chức ngày càng gia tăng (Đ. Có hàng loạt những cổ phiếu được thổi phồng giá quá mức và rồi giá những cổ phiếu này giảm hơn một nửa giá trị chỉ trong vài ngày.
2.2. Ảnh hưởng của tâm lý nhà đầu tư đến thị trường
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại chưa thể đạt đến mức yếu của lý thuyết thị trường hiệu quả EMH (Efficient Markets Hypothesis) (Lo, Lanjouw, & Lensink, 2006). Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt về cấu trúc doanh thu của các công ty chứng khoán như việc thiếu quan tâm đến giá trị khách hàng, chất lượng dịch vụ thấp và chi phí hoạt động cao. Trong đó, nguyên nhân chính bắt nguồn từ hiểu sai tâm lý của nhà đầu tư và vì thế chất lượng dịch vụ tư vấn không đạt hiệu quả cũng như không giữ được chân khách hàng trung thành của công ty mình.
III. Nghiên Cứu Hành Vi Bầy Đàn Tại Đại Học Kinh Tế 58 ký tự
Cùng ủng hộ những quan điểm trên (Lo et al., 2006) và (V Kallinterakis, 2009) chỉ ra rằng thị trường chứng khoán Việt Nam do là thị trường mới nổi cho nên tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường rất yếu ớt và hay dễ thay đổi nhận định. Như vậy, với các vấn đề liên quan đến tâm lý của nhà đầu tư chứng khoán trên, việc đi sâu nghiên cứu định lượng tài chính hành vi nói chung cũng như tâm lý bầy đàn (herding behavior) nói riêng là nội dung rất thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do nghiên cứu mà luận văn này hướng tới.
3.1. Mô hình lý thuyết về tâm lý bầy đàn
Mô hình lý thuyết về tâm lý bầy đàn đã được phát triển bởi những tác giả (Bikhchandani, 1992), (Sharfstein, 1990) và (Devenow, 1996). Riêng nghiên cứu thực nghiệm tập trung chủ yếu vào kiểm định sự tồn tại của tâm lý bầy đàn, trong đó đáng chú ý là công trình nghiên cứu của các nhà quản lý quỹ như (Lakonishok, 1992), (Wermers, 1999) và các nhà phân tích tài chính như (Trueman, 1994), (Graham, 1999), (Welch, 2000), (Hong, 2000), (Gleason, 2003), (Clement, 2005).
3.2. Phương pháp định lượng tâm lý bầy đàn
Nổi bật trong các phương pháp định lượng tâm lý bầy đàn phải kể đến hai nghiên cứu của (Christie, 1995) (gọi tắt phương pháp này là CH) và của (Chang, 2000) (gọi tắt là CCK). Liên quan đến hành vi bầy đàn tại thị trường chứng khoán Việt Nam, có các nghiên cứu được đánh giá cao như công trình nghiên cứu của tác giả (Lý, 2010), (H. Tuấn, 2007) hay của tác giả (Chí, 2007). Nhìn chung, các kết quả đạt được từ các công trình trên đều công nhận hành vi bầy đàn có tồn tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
IV. Ứng Dụng Nghiên Cứu Tâm Lý Đầu Tư NEU 52 ký tự
Trong luận văn này, tác giả sẽ tập trung phân tích và kiểm định để cho kết luận có tồn tại tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư trên hai sàn giao dịch chứng khoán niêm yết TP. Đi sâu vào đo lường chi tiết tâm lý bầy đàn, tác giả sẽ phân tích thêm có diễn ra hiện tượng bất cân xứng hay không đối với các nhân tố như lợi nhuận của nhà đầu tư, khối lượng giao dịch và biến động đột biến của lợi nhuận của thị trường trên cả hai sàn giao dịch. Từ đó cho chúng ta biết tâm lý bầy đàn diễn ra tập trung vào nhân tố nào và khu vực nào (HOSE hay HNX) nhiều hơn.
4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là hành vi bầy đàn (herding behavior) của các nhà nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán niêm yết Việt Nam. được đo lường thông qua thay đổi của suất sinh lợi trên thị trường chứng khoán. Đồng thời đề tài còn tập trung vào các đối tượng mức độ biến động của khối lượng giao dịch và xu hướng của thị trường để làm rõ ảnh hưởng của hiện tượng bất cân xứng tâm lý của các nhà đầu tư, gây nên hiệu ứng tâm lý bầy đàn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được triển khai khảo sát dữ liệu tại hai sàn chứng khoán niêm yết HOSE và HNX, trong khoảng thời gian từ 01/6/2007 đến 01/06/2012. Nhằm tránh những hạn chế của phương pháp (Christie, 1995), trong đề tài này tác giả sử dụng cả hai phương pháp của (Chang, 2000) và (Tan et al., 2008) để kiểm tra hành vi bầy đàn theo mức độ phân tán của lợi nhuận thị trường. Chi tiết việc lựa chọn mô hình thích hợp sẽ được tác giả mô tả chi tiết trong chương 2 của luận văn này.
V. Giải Pháp Ứng Xử Tác Động Hành Vi Bầy Đàn 55 ký tự
Ngoài ra, Trong luận văn này tác giả còn sử dụng một số phương pháp kiểm định phần dư của mô hình hồi quy như các kiểm định Jarque-Bera, Durbin-Watson, White và kiểm định ARCH nhằm kiểm tra tính phân phối chuẩn, phương sai thay đổi, tự tương quan và sự tồn tại của tự hồi quy của các sai số trong mô hình. Đề tài có ý nghĩa thực tiễn cao không chỉ đối với các nhà đầu tư, nhà tạo lập thị trường mà còn có sự quan tâm lớn đối với các nhà quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán.
5.1. Đóng góp mới của luận văn
Đề tài cung cấp bằng chứng cho thấy hiện tượng tâm lý đám đông trong đầu tư chứng khoán tác động lớn như thế nào đến lợi nhuận của các nhà đầu tư và đến sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán Việt Nam. Bố cục của luận văn Chương 1: Cơ sở lý luận hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán Chương 2: Nghiên cứu hành vi bầy đàn trên thị trường chứng khoán việt nam Chương 3: Gợi ý những giải pháp nhằm ứng xử tác động của hành vi bầy đàn
5.2. Cơ sở lý luận hành vi bầy đàn
Tài chính học hành vi là lĩnh vực tài chính sử dụng các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán. Một số miêu tả và giải thích của tài chính học hành vi khá thú vị, mô phỏng hành vi thị trường bằng các cuộc thử nghiệm rất đơn giản như sau: Cho ai đó một lựa chọn hoặc là sẽ có chắc chắn 50.000 đồng hoặc là sẽ chơi trò đồng xu sấp ngửa, nếu thắng sẽ nhận được 100.
VI. Tâm Lý Đầu Tư và Quản Trị Rủi Ro Tại NEU 54 ký tự
Trong đời sống xã hội cũng như kinh tế, có nhiều tình huống mà việc ra quyết định của con người bị ảnh hưởng bởi những quyết định của những người khác, hay những gì mà những người khác đang làm. Những ví dụ đơn giản thể hiện cho điều này đến từ đời sống hằng ngày: con người thường quyết định lựa chọn trang phục, quán ăn, cửa hàng dựa trên cơ sở tính phổ biến của chúng, (Keynes, 1936) đã thấy rằng điều này cũng chính là cách hành xử của các nhà đầu tư trong các thị trường tài sản.
6.1. Phân loại hành vi bầy đàn
Về phân loại hành vi bầy đàn, có nhiều dạng hành vi bầy đàn khác nhau. Như phân loại trong nghiên cứu của (S. Bikhchandani & Sharma, 2001) thì hành vi bầy đàn chia làm 3 loại: hành vi bầy đàn dựa theo thông tin (information-based herding), hành vi bầy đàn dựa theo danh tiếng (reputation-based) và hành vi bầy đàn dựa theo thù lao (compensation-based).
6.2. Hành vi bầy đàn theo thông tin
Nhà đầu tư có thể theo dõi hành động của nhà đầu tư khác nhưng không thể biết rằng họ có nắm giữ thông tin bí mật gì không. Ngay cả khi những cá nhân trao đổi với nhau thì vẫn có những hoài nghi, và họ giám sát hành động thay vì chỉ bằng lời nói. Bằng cách giám sát, họ sẽ suy tính và đưa ra quyết định riêng của mình. Thật ra bầy đàn theo thông tin vì người ta tin rằng có thể một người nào đó biết được những thông tin mà mình không biết, và họ nghĩ thông tin này có thể là đúng, có thể là những thông tin mật bị tiết lộ, vì thế mà họ hành động theo.