I. Tổng Quan Nghiên Cứu Tái Cấu Trúc Giáo Dục Xã Hội VN
Sau năm 1945, Chính phủ Việt Nam tiếp quản các cơ sở nghiên cứu và triển khai của Pháp. Từ đó, Việt Nam bắt đầu xây dựng hệ thống nghiên cứu và triển khai. Đặc điểm chính của hệ thống này là nghiên cứu khoa học tách rời đào tạo và sản xuất. Phần lớn các tổ chức nghiên cứu và triển khai là công lập. Chúng chịu sự chỉ đạo và bao cấp của nhà nước. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia, các tổ chức này phát huy thế mạnh của mình. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống này bộc lộ nhiều khiếm khuyết, nổi bật là sự tách rời nghiên cứu khoa học và đào tạo. Nhà nước đã nỗ lực sửa chữa bằng các Nghị định 35, 80, 68, 115,... nhưng vẫn chưa giải quyết được về cơ bản. Cần sửa lỗi hệ thống để khắc phục khiếm khuyết này.
1.1. Bối Cảnh Cải Cách Giáo Dục Việt Nam Hiện Nay
Việt Nam đang trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước, do đó nhu cầu về đào tạo rất lớn. Nhiều trường đại học đã được thành lập, nhưng ít trường có đủ năng lực thực sự để phục vụ đào tạo. Điều này thể hiện ở chỗ chưa có trường đại học nào ở Việt Nam được xếp hạng trên thế giới. Việt Nam chưa phải là nơi thu hút sinh viên quốc tế đến đào tạo. Ngược lại, một lượng lớn sinh viên Việt Nam du học nước ngoài theo nhiều hình thức. Trong khi đó, các viện nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam, đặc biệt là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, có tiềm năng lớn về đào tạo.
1.2. Tiềm Năng Phát Triển Giáo Dục Xã Hội Tại Các Viện
Các viện có đội ngũ giảng viên giỏi, có bằng cấp cao, được đào tạo chính quy ở các trường đại học trong và ngoài nước. Họ có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu thực tế. Các viện có đầy đủ xưởng thực nghiệm, phòng thí nghiệm với máy móc tiên tiến hàng đầu thế giới. Có thư viện với nhiều tài liệu chuyên môn trong nước và quốc tế. Các viện còn có quan hệ quốc tế chặt chẽ với các trường đại học nước ngoài để trao đổi khoa học.
II. Phân Tích Vấn Đề Tách Biệt Nghiên Cứu và Đào Tạo VN
Các viện vẫn chưa phát huy hết tiềm năng trong việc thực hiện chức năng đào tạo. Hoàn thiện chức năng đào tạo của các viện nghiên cứu và triển khai có thể tạo ra một trường đại học đẳng cấp quốc tế. Nó có thể đứng vững trong xu thế cạnh tranh với các trường quốc tế sẽ mở tại Việt Nam. Tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu triển khai theo mô hình trường đại học đầu tiên sẽ nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học ở Việt Nam.
2.1. Hạn Chế Trong Tiếp Cận Giáo Dục Chất Lượng Cao
Việc tái cấu trúc không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện nay của xã hội đang cần người tài để xây dựng đất nước trong giai đoạn chuyển đổi và hội nhập này. Nó còn đáp ứng nhu cầu của bản thân các viện. Bởi các viện rất cần đội ngũ sinh viên mới tốt nghiệp giỏi cả về kiến thức và thực hành. Khi nhận công tác, họ sẽ đảm nhận được ngay công việc. Viện không mất thêm thời gian và sức lực để đào tạo lại tại chỗ. Từ đó, sẽ đẩy mạnh và nâng cao các hoạt động nghiên cứu.
2.2. Ảnh Hưởng Của Cơ Chế Thị Trường Đến Nghiên Cứu
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các viện nghiên cứu và triển khai vốn là những tổ chức cơ học. Chúng cứng nhắc và không thể năng động, mềm dẻo để thích nghi nhanh chóng với cơ chế thị trường. Vì thế, hiện nay các viện đang rất khó khăn trong việc tự chủ về tài chính khi nhà nước đang cắt giảm dần các khoản đầu tư tài chính. Tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu triển khai theo mô hình trường đại học sẽ đóng góp một nguồn thu lớn. Nó tạo thêm nguồn tài chính để các viện sớm có thể tự chủ trong cơ chế thị trường.
2.3. Khai Thác Hiệu Quả Cơ Sở Vật Chất Tăng Cường Nghiên Cứu
Khi tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu triển khai theo mô hình trường đại học, các trang thiết bị ở xưởng thực nghiệm và phòng thí nghiệm sẽ được sử dụng cho cả hai mục đích: nghiên cứu khoa học và đào tạo. Như vậy, việc đầu tư của nhà nước sẽ được sử dụng triệt để và hiệu quả hơn. Các trang thiết bị nhanh khấu hao thì sẽ sớm được đổi mới. Viện sẽ thường xuyên được sử dụng những trang thiết bị tiên tiến của thế giới. Điều này góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo.
III. Giải Pháp Tái Cấu Trúc Hệ Thống Giáo Dục Xã Hội Hiện Đại
Nhiệm vụ cấp thiết hiện nay là tìm ra giải pháp để tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam. Cần tận dụng triệt để và hiệu quả nhất tiềm năng của các tổ chức nghiên cứu và triển khai. Đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức này có khả năng tự chủ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay.
3.1. Mô Hình Khoa Học Tự Trị Kinh Nghiệm Quốc Tế
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình và đề tài nghiên cứu về cải cách, đổi mới hệ thống tổ chức nghiên cứu và triển khai. Chủ yếu các nghiên cứu đều đưa ra phương án đưa các tổ chức nghiên cứu và triển khai về các tổng công ty, các doanh nghiệp để gắn liền khoa học với sản xuất. Ví dụ: “Cải tiến cơ chế quản lý các cơ quan nghiên cứu triển khai trong bối cảnh kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Một số nghiên cứu kiến nghị: “Nhà nước chỉ quản lý những viện nghiên cứu và phát triển quốc gia. Còn các tổ chức nghiên cứu và phát triển khác chuyển giao quản lý cho các doanh nghiệp, các trường đại học và tư nhân hóa…”
3.2. Kết Hợp Viện Nghiên Cứu và Trường Đại Học
Có báo cáo kiến nghị: “Nhà nước cần quan tâm đến lực lượng nghiên cứu trong các trường đại học. Tạo cơ chế phối hợp Viện – Doanh nghiệp và Doanh nghiệp – Đại học. Giảm dần can thiệp của nhà nước đối với các hoạt động của tổ chức R&D nhà nước bằng cách chuyển các cơ quan R&D công nghiệp sang hoạt động theo cơ chế công ty…”. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ nói đến nhất thể hóa giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học nhưng chỉ bàn về kết hợp giữa trường và viện.
3.3. Ưu Tiên Đầu Tư Phát Triển Nguồn Nhân Lực
Từ trước tới nay ở nước ta chưa có một nghiên cứu nào về tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu và triển khai theo mô hình trường đại học. Trong khi đó, ở các nước phát triển đã thực hiện và rất có hiệu quả như mô hình Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) của Mỹ. Là người đã làm việc nhiều năm tại viện nghiên cứu và triển khai, hiện nay đang làm công tác đào tạo tại viện, tác giả quyết định dành mối quan tâm cho công việc nghiên cứu này.
IV. Ứng Dụng Thực Tiễn Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo VN
Hiện nay, các viện nghiên cứu đóng góp rất nhiều về đội ngũ giáo viên, các xưởng thực hành, thông tin thư viện trong việc đào tạo cử nhân, kỹ sư. Đây chính là cơ sở vững chắc để tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu và triển khai theo mô hình khoa học tự trị trong khuôn khổ các trường đại học.
4.1. Đào Tạo Tiến Sĩ Kinh Nghiệm Thành Công Tại Viện
Qua thực tế nhiều năm (từ 1983 đến nay) cho thấy các viện nghiên cứu và triển khai ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam đã thành công trong đào tạo tiến sĩ. Do có đội ngũ thầy hướng dẫn giàu kinh nghiệm nghiên cứu. Có trang thiết bị nghiên cứu đầy đủ, hiện đại. Có thông tin khoa học được cập nhật nhanh. Có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các trường đại học trên thế giới nên chất lượng đào tạo không thua kém mà có phần còn tốt hơn trường.
4.2. Tháo Gỡ Rào Cản Pháp Lý Tạo Thuận Lợi Đào Tạo
Trước đây, thời gian từ năm 1994-1997 Bộ Giáo dục và đào tạo đã giao cho các viện được đào tạo thạc sĩ. Nhưng Luật Giáo dục năm 1998 (điều 38) quy định cơ sở đào tạo tại các viện phải liên kết với trường đại học mới được phép đào tạo thạc sĩ. Việc liên kết này làm các viện phải làm nhiều thủ tục hành chính về liên kết đào tạo rất mất thời gian và rất hình thức. Vì viện đủ năng lực đào tạo và thực tế đã đào tạo thành công trong thời gian qua.
V. Đề Xuất Chính Sách Hỗ Trợ Tái Cấu Trúc Giáo Dục
Các giải pháp mang tính vĩ mô của nhà nước để đẩy mạnh việc tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện cho các viện nghiên cứu và triển khai thực hiện đầy đủ chức năng đào tạo. Nhà nước cần hỗ trợ tài chính cho các viện để tái cấu trúc hệ thống tổ chức nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam theo mô hình khoa học tự trị trong khuôn khổ các trường đại học. Nhà nước cần giao quyền tự trị khoa học trong khuôn khổ trường đại học.
5.1. Giao Quyền Tự Chủ và Tăng Cường Đầu Tư
Các viện nghiên cứu và triển khai cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn lực tài chính và phát triển các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của xã hội. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các viện trong việc liên kết với các trường đại học và doanh nghiệp. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ và khuyến khích các viện tham gia vào các dự án nghiên cứu và phát triển mang tính ứng dụng cao.
5.2. Xây Dựng Mạng Lưới Liên Kết Giáo Dục và Nghiên Cứu
Các trường đại học cần chủ động hơn trong việc hợp tác với các viện nghiên cứu để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Cần xây dựng một mạng lưới liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để tạo ra một môi trường học tập và làm việc sáng tạo, đổi mới. Đồng thời, cần có các chương trình trao đổi sinh viên và giảng viên giữa các trường đại học và viện nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng thực hành.
VI. Kết Luận Tương Lai Tái Cấu Trúc Hệ Thống Giáo Dục VN
Dự báo phát triển các viện nghiên cứu và triển khai sau khi tái cấu trúc. Tăng khả năng thích ứng và hội nhập khi gia nhập WTO. Tăng khả năng tự chủ tài chính của viện. Các trang thiết bị ở xưởng thực nghiệm và phòng thí nghiệm sẽ được sử dụng cho cả hai mục đích nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc đầu tư của nhà nước sẽ được sử dụng triệt để và hiệu quả hơn. Các trang thiết bị nhanh khấu hao thì sẽ sớm được đổi mới. Viện sẽ thường xuyên được sử dụng những trang thiết bị tiên tiến của thế giới. góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo.
6.1. Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh và Hội Nhập
Việc tái cấu trúc hệ thống giáo dục xã hội ở Việt Nam là một quá trình lâu dài và phức tạp. Tuy nhiên, đây là một việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Với sự nỗ lực của các cấp chính quyền, các cơ sở giáo dục và các nhà nghiên cứu, hy vọng rằng hệ thống giáo dục Việt Nam sẽ ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền giáo dục thế giới.
6.2. Giáo Dục Thường Xuyên và Học Tập Suốt Đời
Một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thành công của quá trình tái cấu trúc là sự tham gia tích cực của người học. Cần tạo điều kiện thuận lợi để người học có thể tiếp cận với các nguồn tài nguyên học tập và các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của bản thân. Đồng thời, cần khuyến khích người học tự học và học tập suốt đời để nâng cao kiến thức và kỹ năng của mình.