I. Tổng Quan Nghiên Cứu Huy Động Nguồn Lực Xây Dựng Nông Thôn Mới
Xây dựng nông thôn mới (NTM) là nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020 là chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng, được thực hiện trên phạm vi cả nước. Trước đó, Việt Nam đã có 10 năm triển khai các hoạt động thử nghiệm thông qua các chương trình thí điểm xây dựng NTM ở nhiều địa phương. Các chương trình này đều nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương, coi sự tham gia và đóng góp của cộng đồng là nguồn lực chính. Tuy nhiên, quá trình thử nghiệm vẫn chưa khơi dậy hiệu quả nguồn lực từ cộng đồng, người dân chưa tích cực tham gia đóng góp vào các hoạt động xây dựng NTM.
1.1. Lịch Sử Phát Triển Chương Trình Nông Thôn Mới Tại Việt Nam
Từ năm 2001 đến 2011, nhiều chương trình thí điểm xây dựng nông thôn mới đã được triển khai, bao gồm chương trình cấp xã của Ban Kinh tế Trung ương, chương trình cấp thôn bản của Bộ NN&PTNT, và chương trình thời kỳ đẩy nhanh CNH-HĐH do Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ đạo. Song song với các chương trình này, nhiều địa phương cũng triển khai các hoạt động xây dựng NTM theo những chương trình riêng của tỉnh, thành phố. Các chương trình thí điểm và chương trình MTQG xây dựng NTM đều thực hiện nguyên tắc chủ đạo trong triển khai các nội dung xây dựng NTM là phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương.
1.2. Vai Trò Của Cộng Đồng Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Nguyên tắc cốt lõi của chương trình NTM là phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng nhân dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện. Xây dựng NTM là một hoạt động "dựa vào cộng đồng", phát huy sự tham gia và đóng góp của cộng đồng là nguồn lực chính để thực hiện các nội dung xây dựng NTM. Tuy nhiên, theo đánh giá chung từ các chương trình thí điểm, quá trình thử nghiệm vẫn chưa khơi dậy hiệu quả nguồn lực từ cộng đồng, người dân chưa tích cực tham gia đóng góp vào các hoạt động xây dựng NTM.
II. Thách Thức Huy Động Nguồn Lực Nông Thôn Mới Tại Huyện Nghèo
Mặc dù xây dựng NTM trên cả nước đều nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng, vai trò này chưa được phát huy đầy đủ, đặc biệt ở các huyện nghèo vùng miền núi được hưởng chính sách theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP. Chưa có giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng, trong khi đây là nguồn lực quan trọng quyết định sự thành công của chương trình. Nguồn lực cộng đồng không chỉ gồm tiền của, vật chất, sức lao động mà còn là trí tuệ, tinh thần, kiến thức bản địa, sự tham gia ý kiến, sự đồng thuận, mối quan hệ tương tác bên trong và bên ngoài cộng đồng.
2.1. Thực Trạng Huy Động Nguồn Lực Ở Các Huyện Nghèo
Đặc biệt là các khu vực miền núi có điều kiện kinh tế đặc biệt khóa khăn, người dân tâm lý ỷ lại, chỉ dựa vào sự hỗ trợ, đầu tư của nhà nước, từ nguồn vốn cho xây dưng NTM, do đó, chủ yếu từ ngân sách nhà nước và tập trung cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, thiếu sự tham gia ý kiến của cộng đồng, thiếu các hoạt động phát huy vai trò cộng đồng trong tổ chức sản xuất, bảo vệ môi trường, duy trì và phát triển các truyền thống văn hoá tốt đẹp. Ngay trong báo cáo của BCĐ Trung ương về kết quả giai đoạn đầu triển khai chương trình MTQG xây dựng NTM, vấn đề tồn tại vẫn là nhận thức của một bộ phận cán bộ các cấp và người dân về xây dựng NTM còn chưa đúng và chưa đầy đủ, mang nặng tâm lý thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa phát huy được vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư.
2.2. Thiếu Hụt Chính Sách Huy Động Nguồn Lực Từ Cộng Đồng
Cả nước hiện nay có trên 9.000 xã, nhu cầu vốn cho xây dựng NTM ở mỗi xã là hàng chục, hàng trăm tỷ đồng. Ngân sách nhà nước không thể đầu tư cho xây dựng NTM tại tất cả các xã trên cả nước như các chương trình thí điểm. Việc huy động một cách đa dạng các nguồn vốn ngoài ngân sách đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong khi các chính sách huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, ngân hàng cho xây dựng NTM đã được ban hành, nhưng chính sách huy động nguồn lực từ cộng đồng lại chưa có, trong đó chính sách huy động đối với các huyện nghèo vùng miền núi được thụ hưởng chính sách theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP lại càng thiếu.
2.3. Nghiên Cứu Huy Động Nguồn Lực Tại Huyện Minh Hóa Quảng Bình
Chính vì những lý do trên mà tôi lựa chọn đề tài cho luận văn là: "Nghiên cứu việc huy động nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới ở huyện nghèo Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP". Mục tiêu chung là nghiên cứu việc huy động nguồn lực cộng đồng trong xây dựng NTM ở huyện nghèo vùng miền núi theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP trên huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Từ đó, đề xuất các giải pháp huy động nguồn lực cho xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
III. Phân Tích Thực Trạng Huy Động Vốn Xây Dựng Nông Thôn Mới Minh Hóa
Nghiên cứu được tiến hành tại hai xã Quy Hóa và Thượng Hóa của huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, sử dụng số liệu từ năm 2014 đến 2016. Xã Quy Hóa đã đạt chuẩn NTM năm 2016, đại diện cho nhóm xã có điều kiện tốt hơn. Xã Thượng Hóa thực hiện được 9/19 tiêu chí, là địa phương có nhiều dân tộc ít người sinh sống, diện tích chủ yếu là đồi núi, đại diện cho nhóm địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội kém hơn. Nghiên cứu sử dụng thông tin thứ cấp từ các báo cáo và văn bản liên quan, cũng như thông tin sơ cấp từ phỏng vấn hộ và đại diện các tổ chức chính trị xã hội.
3.1. Phương Pháp Nghiên Cứu Và Thu Thập Dữ Liệu
Nghiên cứu thu thập thông tin thứ cấp từ các báo cáo và các văn bản, nghiên cứu liên quan. Thông tin sơ cấp được lấy từ phỏng vấn hộ, phỏng vấn đại diện các tổ chức chính trị xã hội liên quan. Số hộ nghiên cứu được tính toán trên công thức Slovin, với sai số 10%, mỗi xã phỏng vấn 45 hộ để tiện tính toán và thực địa.
3.2. Đặc Điểm Kinh Tế Xã Hội Của Hai Xã Nghiên Cứu
Quy Hóa và Thượng Hóa đều là hai xã nghèo. Thượng Hóa có diện tích lớn hơn nhưng tỷ lệ hộ nghèo lớn hơn (51.22%), người dân sống rải rác trên các sườn đồi, tập trung thành các nhóm nhỏ, thôn bản nhỏ. Người dân hai xã sống hoàn toàn dựa vào nông nghiệp, nhưng diện tích trồng trọt nhỏ hẹp, phân tán, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và thu nhập hộ. Tổng thu nhập tại Thượng Hóa (15.7 triệu đồng/năm) trung bình chỉ bằng một nửa thu nhập tại Quy Hóa (28. Tuy vậy, theo quan sát của tác giả trong quá trình nghiên cứu, thu nhập của hộ cao hơn do có nhiều sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền, dự án, các nguồn thu từ khai thác lâm sản.
3.3. Mức Độ Tham Gia Của Người Dân Vào Xây Dựng NTM
Tại cấp độ tham gia thụ động hoặc tham gia như người đóng góp, được tham vấn thì: thì người dân xã Quy Hóa có ý thức cao hơn về việc tham gia các cuộc họp cộng đồng liên qua đến xây dựng NTM. Nguyên nhân xuất phát từ ý thức vai trò trách nhiệm của bản thân trong hoạt động này, tiếp theo nguyên nhân liên quan đến địa hình và cách thức tổ chức. Thượng Hóa có diện tích lớn gấp hơn 4 lần Quy Hóa, đa số là đồi núi, dân cư thưa thớt, dù tổ chức ban ngày hay ban đêm thì người dân vẫn rất khó tham gia các cuộc họp này. Vậy nên, ở Thượng Hóa, ngoài tổ chức các cuộc họp truyền thống, cán bộ địa phương phải đến từng thôn, bản để tuyên truyền vận động về chương trình xây dựng NTM với người dân.
IV. Đánh Giá Khả Năng Đóng Góp Nguồn Lực Xây Dựng Nông Thôn Mới
Nghiên cứu cho thấy mức độ đóng góp tài chính của người dân còn hạn chế, chủ yếu là đóng góp về công lao động và vật chất. Mức độ ưu tiên của công trình phụ thuộc vào mức độ thực dụng của công trình mang lại cho người dân, họ ít quan tâm đến các công trình bưu điện, cơ sở văn hóa, nhà ở hơn các công trình trường học, thủy lợi, giao thông nông thôn. Nguyên nhân là người dân không có kinh phí đóng góp và nếu phải thực hiện các công trình này thì người dân thường mang tâm lý trông chờ là chính.
4.1. Khả Năng Đóng Góp Tài Chính Vật Chất Và Công Lao Động
Về khả năng đóng góp các nguồn lực cho các tiêu chí NTM: đóng góp về tiền mặt hiện tại đa số vừa và cao hơn khả năng đối với nhóm hộ nghèo và hộ trung bình, nhóm hộ khá tại Quy Hóa có khả năng đóng góp cao hơn mức huy động. Đối với đóng góp vốn vật chất: nhóm hộ khá và hộ nghèo cho rằng mức đóng góp là quá khả năng và vừa khả năng, tuy nhiên nhóm hộ khá tại 2 xã đều cho rằng mức đóng góp như vậy là thấp hơn khả năng của hộ. Đối với đóng góp về công lao động, xã Thượng Hóa có sự phân bố khá đồng đều ở các nhóm hộ cho rằng họ có khả năng đóng góp nhiều công lao động hơn nếu được quy đổi từ các nguồn đóng góp khác thành công lao động.
4.2. Mức Độ Ưu Tiên Của Người Dân Đối Với Các Công Trình
Mức độ ưu tiên của công trình phụ thuộc vào mức độ thực dụng của công trình mang lại cho người dân, họ ít quan tâm đến các công trình bưu điện, cơ sở văn hóa, nhà ở hơn các công trình trường học, thủy lợi, giao thông nông thôn. Nguyên nhân là người dân không có kinh phí đóng góp và nếu phải thực hiện các công trình này thì người dân thường mang tâm lý trông chờ là chính.
4.3. Sự Phù Hợp Giữa Mức Độ Huy Động Và Đặc Điểm Địa Phương
Từ đó ta rút ra kết luận: mức độ và thể loại nguồn lực huy động cho NTM cần phù hợp với đặc điểm của từng địa phương thay vì rập khuôn máy móc. Sự khó khăn trong quá trình huy động nguồn lực xuất phát từ ý thức của người dân đối với xã Quy Hóa và từ hạn chế của kinh tế hộ đối với xã Thượng Hóa.
V. Giải Pháp Huy Động Nguồn Lực Xây Dựng Nông Thôn Mới Bền Vững
Kết quả phân tích SWOT của huyện Minh Hóa nói chung và 2 xã nghiên cứu nói riêng, đề tài đề xuất một số giải pháp giúp huy động nguồn lực đó là: đào tạo nguồn nhân lực cho NTM; đào tạo kiến thức quản lý cho cán bộ HTX tạo động lực phát triển kinh tế cho địa phương; nâng cao dân trí, tăng cường sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM.
5.1. Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Cho Xây Dựng Nông Thôn Mới
Đào tạo nguồn nhân lực cho NTM là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả xây dựng NTM. Cần tập trung vào đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người dân để họ có đủ kiến thức và kỹ năng để tham gia vào quá trình xây dựng NTM.
5.2. Nâng Cao Năng Lực Quản Lý Cho Hợp Tác Xã
Đào tạo kiến thức quản lý cho cán bộ HTX tạo động lực phát triển kinh tế cho địa phương. HTX đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông thôn, do đó cần nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ HTX để họ có thể điều hành HTX một cách hiệu quả.
5.3. Tăng Cường Sự Tham Gia Của Người Dân
Nâng cao dân trí, tăng cường sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM. Sự tham gia của người dân là yếu tố then chốt để đảm bảo sự thành công của chương trình xây dựng NTM. Cần tạo điều kiện để người dân tham gia vào quá trình lập kế hoạch, thực hiện và giám sát các hoạt động xây dựng NTM.
VI. Kết Luận Và Kiến Nghị Về Huy Động Nguồn Lực Nông Thôn Mới
Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng huy động nguồn lực trong xây dựng NTM tại huyện nghèo Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Kết quả cho thấy việc huy động nguồn lực từ cộng đồng còn nhiều hạn chế, cần có các giải pháp phù hợp với đặc điểm của từng địa phương để nâng cao hiệu quả huy động. Các giải pháp cần tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý cho HTX và tăng cường sự tham gia của người dân.
6.1. Tóm Tắt Kết Quả Nghiên Cứu Chính
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc huy động nguồn lực từ cộng đồng trong xây dựng NTM tại huyện Minh Hóa còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện kinh tế xã hội còn hạn chế và ý thức tham gia của người dân chưa cao. Cần có các giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế này.
6.2. Đề Xuất Các Kiến Nghị Cụ Thể
Đề xuất các kiến nghị cụ thể để nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực trong xây dựng NTM tại huyện Minh Hóa, bao gồm: tăng cường tuyên truyền vận động để nâng cao ý thức tham gia của người dân, xây dựng các cơ chế chính sách khuyến khích sự tham gia của người dân, và hỗ trợ phát triển kinh tế để nâng cao thu nhập cho người dân.
6.3. Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
Đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo để tiếp tục nghiên cứu về vấn đề huy động nguồn lực trong xây dựng NTM, bao gồm: nghiên cứu về các mô hình huy động nguồn lực hiệu quả, nghiên cứu về tác động của các chính sách đến việc huy động nguồn lực, và nghiên cứu về vai trò của các tổ chức xã hội trong việc huy động nguồn lực.