I. Tổng Quan Mô Hình Điểm Đánh Giá Kinh Tế VNU Hà Nội
Từ năm 1978, kinh tế Trung Quốc đã trải qua những biến đổi đáng kinh ngạc, khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ. Trong giai đoạn 1978-2007, Trung Quốc duy trì mức tăng trưởng GDP bình quân 9,7%/năm, vượt xa mức trung bình 3% của thế giới. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, dù được xem là cơ hội hay thách thức, đều không thể phủ nhận sự thật rằng "con rồng Trung Hoa" đã thức giấc. Các nghiên cứu thường tập trung vào ba khía cạnh chính để lý giải thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế tại Trung Quốc từ năm 1978: tái phân phối quyền tài sản, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, và tận dụng vai trò của thị trường bên ngoài thông qua hội nhập.
1.1. Phân Tích Bối Cảnh Phát Triển Kinh Tế VNU Hà Nội
Trước khi chuyển đổi năm 1978, chế độ quyền tài sản phổ biến ở Trung Quốc là công hữu, với quyền sở hữu thuộc về nhà nước. Ở nông thôn, các hợp tác xã được xem là hình thức chuẩn của sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, chế độ quyền tài sản công hữu tồn tại nhiều hạn chế. Tính chất tàn khuyết của chế độ này biểu hiện ở sự bất cân xứng giữa quyền tài sản được ghi nhận bởi luật pháp và quyền tài sản thực thi trên thực tế. Barzel [9] chỉ ra rằng phân định quyền sở hữu trên khía cạnh pháp luật luôn dễ dàng và chi phí thấp hơn thực thi nó trên thực tế. Chi phí để thực hiện quyền sở hữu quá lớn khiến chủ thể quyền tài sản khó lòng đảm bảo khả năng ngăn cản người khác sử dụng.
1.2. Mục Tiêu Phạm Vi Mô Hình Kinh Tế VNU Hà Nội
Việc tài sản bị sử dụng miễn phí gây ra những tổn thất phúc lợi hoặc làm hao tán tiền tô. Hậu quả trực tiếp là khả năng làm cạn kiệt các nguồn lực công cộng. Bên cạnh đó, chế độ quyền tài sản công hữu còn khiến cơ chế khích lệ không phát huy tác dụng, khi chỉ tạo điều kiện để phi chủ thể sở hữu được khuyến khích sử dụng miễn phí nhưng không phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Nhìn lại sự phát triển của công xã nhân dân và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở nông thôn hay xí nghiệp quốc doanh ở thành thị có thể thấy rõ tác hại này. Kinh doanh lỗ lãi đều không ảnh hưởng đến thu nhập cá nhân thì giám đốc xí nghiệp, công nhân viên chức và nông dân đều chỉ làm việc "ề à" cho đủ chỉ tiêu.
II. Thách Thức Vấn Đề Của Mô Hình Kinh Tế Hiện Tại VNU
Nguyên nhân quan trọng thứ hai là xây dựng và vận dụng thể chế kinh tế thị trường. Xung quanh vấn đề vì sao thể chế kinh tế kế hoạch ở các nước xã hội chủ nghĩa vận hành kém hiệu quả, các nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới đã triển khai nhiều đợt tranh luận sôi nổi [51]. Trong đó, có thể kể đến những phê phán xuất sắc của L. von Hayek hay những phản biện của các nhà kinh tế bênh vực kinh tế kế hoạch như M. Kalecki. Những tranh luận này chủ yếu xoay quanh vấn đề chính phủ có thể thay thế thị trường để cung cấp tín hiệu quan trọng nhất (là giá cả) trong việc điều phối và phân bổ nguồn lực hay không? Kinh tế thị trường có thể làm tăng lượng của cải xã hội.
2.1. Hạn Chế Của Kế Hoạch Hóa Tập Trung Tại VNU Hà Nội
Lý thuyết kinh tế học Tân cổ điển chỉ ra rằng việc chuyển từ định giá theo kế hoạch sang thị trường định giá khiến thặng dư của người tiêu dùng và người sản xuất tăng lên. Do giá kế hoạch tương đối cố định và phản ứng kém linh hoạt với những dịch chuyển khỏi điểm cân bằng của quan hệ cung cầu, giá kế hoạch thường chệch khỏi mức “giá cân bằng” của thị trường. Điều này khiến sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch nếu không rơi vào tình trạng thiếu hụt thì cũng bị dư thừa, gây ra những tổn thất thặng dư cho người sản xuất và tiêu dùng.
2.2. Tính Nhất Trí Cao Của Sự Đồng Thuận Trong Kinh Tế VNU
Cách giải thích của Kinh tế học hợp đồng đơn giản hơn. Buchanan chỉ ra rằng, tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá hiệu quả là tính nhất trí cao của sự đồng thuận. “Đồng thuận” có nghĩa là những bên tham gia giao dịch sau khi trải qua sự cân nhắc về chi phí – lợi ích, cho rằng một giao dịch thực hiện sắp xếp/phân bổ nguồn lực là có lợi cho bản thân, hoặc ít nhất là vô hại. “Không đồng thuận” vì có nghĩa là các bên hoặc một bên tham gia giao dịch cho rằng giao dịch không đem lại ích lợi cho họ.
III. Phương Pháp Mô Hình Thí Điểm Cải Cách Kinh Tế VNU
Nguyên nhân thứ ba, Trung Quốc đã tận dụng được các cơ hội từ quá trình hội nhập của mình. Nhìn lại lịch sử phát triển của Trung Quốc và nhìn vào mức độ gắn kết của Trung Quốc với nền kinh tế thế giới hiện nay, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng nếu quá trình cải cách không gắn liền với mở cửa thì rất có thể những thành tựu ngày hôm nay sẽ không còn ấn tượng như những gì chúng ta đang chứng kiến. Năm 1980, thời điểm mà Trung Quốc mới bắt đầu tiến hành quá trình chuyển đổi (transformation), quốc gia này chỉ chiếm hơn 2% tổng GDP thế giới và chưa đầy 2% tổng giá trị thương mại toàn cầu [8, 11-13].
3.1. Cải Cách Thể Chế Kinh Tế Theo Hướng Thị Trường Tại VNU
Những nỗ lực cải cách theo hướng thị trường hóa tập trung vào cải cách giá cả. Một kinh nghiệm đáng lưu ý là thực hiện “chế độ hai giá” (giá do nhà nước quy định và giá thị trường). Trước cải cách, Trung Quốc hầu như không tồn tại thị trường với ý nghĩa thực sự của nó. Hàng hóa tiêu dùng và tư liệu sản xuất đều được lưu thông theo chế độ phân phối. Đến đầu thập niên 1980, sau khi các loại hình doanh nghiệp phi quốc hữu xuất hiện và đạt được sự phát triển mạnh, thể chế phân phối này không thể tồn tại lâu dài.
3.2. Quá Trình Hội Nhập Quốc Tế Của Mô Hình Kinh Tế VNU
30 năm sau, tỉ trọng GDP của quốc gia này đã chiếm khoảng 9% của toàn thế giới và cũng đóng góp khoảng 9% trong tổng mức thương mại toàn cầu. Năm 2009, FDI vào Trung Quốc chiếm 7% lượng FDI toàn cầu trong khi con số này của năm 1980 chỉ là 1%, đồng thời lượng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc cũng tăng từ mức không đáng kể (năm 2004) lên 4% toàn cầu (năm 2009). Tuy nhiên, các nghiên cứu so sánh để tìm hiểu về nguyên nhân thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế tại Trung Quốc chưa thực sự nhiều.
IV. Ứng Dụng Nghiên Cứu Mô Hình Đặc Khu Kinh Tế VNU Hà Nội
Các nghiên cứu trường hợp về cách thức chuyển đổi, quá trình hoạch định chính sách chuyển đổi, điều kiện ban đầu của chuyển đổi, thiết lập thể chế mới trong quá trình chuyển đổi,... Tầm quan trọng của việc nghiên cứu về cách thức chuyển đổi thể hiện rõ nét sau khi “mô hình Trung Quốc” được nêu lên như một tương phản với “mô hình chuyển đổi shock” không chỉ về cách thức mà cả về kết quả. Khi tiếng nói của Đồng thuận Washington ngày càng yếu và quan điểm về Đồng thuận Bắc Kinh ngày càng nổi bật, thậm chí có quan điểm cho rằng mô hình Trung Quốc mới là điều mà các quốc gia chuyển đổi cần mô phỏng.
4.1. Vai Trò Của Đặc Khu Kinh Tế Trong Chiến Lược VNU
Dù tranh luận về cách thức – hành vi – kết quả chuyển đổi vẫn tồn tại nhiều tranh luận nhưng có một điểm cần khẳng định là nghiên cứu về cách thức chuyển đổi từ góc độ lý thuyết không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà còn có ý nghĩa ở hiện tại bởi quá trình chuyển đổi – đối với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam – vẫn chưa dừng lại. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu về quá trình chuyển đổi cũng như ý nghĩa, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu về cách thức chuyển đổi tại Trung Quốc thông qua một mô hình đặc thù – mô hình thí điểm cải cách.
4.2. Ý Nghĩa Của Việc Xây Dựng Đặc Khu Kinh Tế VNU
Thông qua nghiên cứu mô hình này, tôi muốn làm rõ bản chất chuyển đổi từng bước/phần/tiệm tiến của Trung Quốc. Thông qua nghiên cứu mô hình, tôi cũng muốn tìm hiểu về việc cách thức nào giúp Trung Quốc có thể chuyển đổi từng bước/phần/tiệm tiến như vậy. Với quá trình chuyển đổi tại các nước xã hội chủ nghĩa thuộc hệ thống cổ điển ngày càng đi sâu, kết quả của chuyển đổi ngày càng hiện rõ, mường tượng của mọi người về quá trình chuyển đổi kinh tế ngày càng thân thực hơn thì các nghiên cứu về kinh tế học chuyển đổi cũng ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm và chất vấn hơn.
V. Đánh Giá Điểm Mạnh Điểm Yếu Mô Hình Kinh Tế VNU
Đến đầu thập niên 1980, sau khi các loại hình doanh nghiệp phi quốc hữu xuất hiện và đạt được sự phát triển mạnh, thể chế phân phối này không thể tồn tại lâu dài, nếu không các doanh nghiệp này sẽ không thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Trước tình hình đó, năm 1979, Chính phủ Trung Quốc ban hành “Một số quyết định về việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh”, cho phép doanh nghiệp tự mình tiêu thụ toàn bộ sản phẩm “vượt kế hoạch”. Tháng 1 năm 1985, Cục Vật giá quốc gia và Cục vật tư quốc gia ban hành văn bản “Thông báo về buông lỏng giá đối với các sản phẩm công nghiệp mang tính tư liệu sản xuất vượt kế hoạch”.
5.1. Hiệu Quả Bất Cập Của Mô Hình Kinh Tế Thí Điểm
Đối với các doanh nghiệp nhà nước từ trước năm 1983 vẫn có quyền nhận vật tư theo kế hoạch nhà nước thì được tiếp tục mua số vật tư cần cho sản xuất theo giá nhà nước phân phối, dựa trên cơ số phân phối năm 1983. Số tư liệu sản xuất cần có nếu vượt quá cơ số năm 1983 thì phải mua lại theo giá thị trường. Hiện nay, hầu hết các hàng hóa và tư liệu sản xuất ở Trung Quốc đều do thị trường định giá.
5.2. Một Số Vấn Đề Tồn Tại Trong Mô Hình Kinh Tế
Tuy nhiên, các nghiên cứu so sánh để tìm hiểu về nguyên nhân thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế tại Trung Quốc chưa thực sự nhiều. Đặc biệt, thiếu các nghiên cứu và nghiên cứu so sánh sau về quá trình chuyển đổi tại Trung Quốc: (i) Nghiên cứu cách thức chuyển đổi của quốc gia này từ góc độ thuần túy lý thuyết kinh tế học; (ii) So sánh từ góc độ thuần túy lý thuyết các cách thức chuyển đổi của Trung Quốc với các cách thức của quốc gia Đông Âu, Nga v.; (iii) Các nghiên cứu trường hợp về các cách thức chuyển đổi.
VI. Triển Vọng Hướng Phát Triển Mô Hình Kinh Tế VNU Hà Nội
Văn bản này cho phép doanh nghiệp mua bán sản phẩm “ngoài kế hoạch” theo giá thị trường. Đối với các doanh nghiệp nhà nước từ trước năm 1983 vẫn có quyền nhận vật tư theo kế hoạch nhà nước thì được tiếp tục mua số vật tư cần cho sản xuất theo giá nhà nước phân phối, dựa trên cơ số phân phối năm 1983. Số tư liệu sản xuất cần có nếu vượt quá cơ số năm 1983 thì phải mua lại theo giá thị trường. Hiện nay, hầu hết các hàng hóa và tư liệu sản xuất ở Trung Quốc đều do thị trường định giá. Các nghiên cứu thường tập trung vào ba khía cạnh chính để lý giải thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế tại Trung Quốc từ năm 1978: tái phân phối quyền tài sản, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, và tận dụng vai trò của thị trường bên ngoài thông qua hội nhập.
6.1. Giải Pháp Ưu Tiên Cho Mô Hình Kinh Tế Thí Điểm
Thông qua nghiên cứu mô hình này, tôi muốn làm rõ bản chất chuyển đổi từng bước/phần/tiệm tiến của Trung Quốc. Thông qua nghiên cứu mô hình, tôi cũng muốn tìm hiểu về việc cách thức nào giúp Trung Quốc có thể chuyển đổi từng bước/phần/tiệm tiến như vậy. Với quá trình chuyển đổi tại các nước xã hội chủ nghĩa thuộc hệ thống cổ điển ngày càng đi sâu, kết quả của chuyển đổi ngày càng hiện rõ, mường tượng của mọi người về quá trình chuyển đổi kinh tế ngày càng thân thực hơn thì các nghiên cứu về kinh tế học chuyển đổi cũng ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm và chất vấn hơn.
6.2. Ưu Tiên Phát Triển Thị Trường Tại VNU
Các nghiên cứu trường hợp về cách thức chuyển đổi, quá trình hoạch định chính sách chuyển đổi, điều kiện ban đầu của chuyển đổi, thiết lập thể chế mới trong quá trình chuyển đổi,... Tầm quan trọng của việc nghiên cứu về cách thức chuyển đổi thể hiện rõ nét sau khi “mô hình Trung Quốc” được nêu lên như một tương phản với “mô hình chuyển đổi shock” không chỉ về cách thức mà cả về kết quả. Khi tiếng nói của Đồng thuận Washington ngày càng yếu và quan điểm về Đồng thuận Bắc Kinh ngày càng nổi bật, thậm chí có quan điểm cho rằng mô hình Trung Quốc mới là điều mà các quốc gia chuyển đổi cần mô phỏng.