I. Tổng Quan Chính Thể Việt Nam Nghiên Cứu Hiến Pháp Hiện Hành
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, khẳng định quyền bình đẳng, tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi người. Chính phủ được lập ra để bảo vệ quyền lợi này, và nhân dân có quyền thay đổi chính quyền nếu thể chế đó phá vỡ mục tiêu này. Nghiên cứu về Nhà nước và các hiện tượng khác đòi hỏi hiểu rõ nội dung và hình thức. Hình thức Nhà nước là vấn đề quan trọng trong tổ chức và thực hiện quyền lực. Vấn đề chính thể và cơ cấu lãnh thổ luôn được quy định trong Hiến pháp, văn bản pháp lý cao nhất. Nghiên cứu chính thể Nhà nước có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Hình thức chính thể là mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cho biết Nhà nước do ai thống trị và thống trị như thế nào.
1.1. Tầm Quan Trọng của Nghiên Cứu Chính Thể Nhà Nước
Nghiên cứu chính thể Nhà nước là một vấn đề khó nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Xây dựng hình thức chính thể phải phù hợp với hoàn cảnh của từng Nhà nước. Có như vậy bộ máy Nhà nước mới phát huy hết hiệu quả hoạt động của mình, đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế, đảm bảo sự phát triển trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước. Nhìn lại các hình thức chính thể của các Nhà nước trên thế giới, xem xét những ưu điểm và hạn chế của từng hình thức chính thể góp phần không nhỏ trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của đất nước mình.
1.2. Mục Tiêu Nghiên Cứu Phân Tích Hình Thức Chính Thể
Luận văn nghiên cứu vấn đề hình thức chính thể của nhà nước qua các bản Hiến pháp Việt Nam từ 1946 nay nhằm nhìn nhận một cách tổng quát nhất các hình thức chính thể nhà nước mà Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng, qua đó rút ra những tồn tại và những ưu điểm đã đạt được. Từ đó có định hướng cho sự hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cho những lần xây dựng các bản Hiến pháp sau này. Mục tiêu cụ thể là đưa ra lý thuyết chung nhất về chính thể, các loại hình chính thể trên thế giới và phân tích, làm rõ hình thức chính thể tại Việt Nam qua các bản Hiến pháp từ 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp 2013.
II. Lịch Sử Hiến Pháp Việt Nam Phân Tích Các Giai Đoạn Phát Triển
Chính thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội như triết học, luật học. Luật học nghiên cứu ở các khía cạnh như cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước, cơ chế hoạt động của nó, mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau… Hình thức chính thể Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ là đề tài nóng hổi bởi tính thời sự của nó. Xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà nước như thế nào, mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau… là vấn đề quan tâm của nhiều cấp, ngành và toàn thể nhân dân Việt Nam. Bởi lẽ bộ máy Nhà nước có hoạt động hiệu quả thì chúng ta mới thành công trên con đường Xã hội chủ nghĩa đã chọn, khẳng định mục tiêu lý tưởng là xây dựng cho được một đất nước hoà bình, ấm no, hạnh phúc.
2.1. Các Công Trình Nghiên Cứu Về Hình Thức Chính Thể
Về vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ra đời, vừa có tính chất phục vụ giảng dạy trong các trường đại học, vừa có tính chất nghiên cứu phục vụ thực tiễn, tiêu biểu như: PGS. TS Nguyễn Đăng Dung (2004), Hình thức của các nhà nước đương đại, Nxb Thế giới, Hà Nội; Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Những công trình nêu trên đã đưa ra một cách nhìn toàn diện về hình thức chính thể Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ, qua đó chúng ta có cái nhìn khái quát nhất quá trình phát triển bộ máy Nhà nước Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại.
2.2. Đóng Góp Mới của Luận Văn Về Hiến Pháp 2013
Bài luận văn này nghiên cứu vấn đề không phải là mới nhưng lại đưa ra một vấn đề khá mới mẻ hiện nay. Đó hệ thống khái quát hình thức chính thể Nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp, đặc biệt là hình thức chính thể nhà nước trong bản Hiến pháp hiện đại vừa có hiệu lực thi hành. Luận văn phân tích rõ hình thức chính thể Nhà nước Việt Nam trong bản Hiến pháp 2013, chỉ ra các điểm mới trong bản Hiến pháp của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hệ thống một cách khái quát nhất hình thức chính thể nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp, luận văn có thể làm tài liệu cho các sinh viên luật hoặc những người yêu thích tìm hiểu bộ môn hiến pháp.
III. Chính Thể và Hiến Pháp Lý Luận Cơ Bản Về Tổ Chức Nhà Nước
Nhà nước, tức Chính phủ rất cần cho cuộc sống con người… Nhưng tạo ra một Chính phủ như thế nào và có hình thức ra sao luôn là câu hỏi lớn của nhân loại, tạo ra một Chính phủ không đòi hỏi nhiều sự cẩn trọng, phân chia quyền lực, dạy cách tuân phục và công việc thế là xong. Cho quyền tự do còn dễ dàng hơn nữa. Không cần hướng dẫn, nó chỉ đòi hỏi xoá bỏ sự cai trị. Nhưng để thành lập một Chính phủ dân chủ tự do tức là dung hoà tất cả các yếu tố đối nghịch giữa tự do và kiềm toả trong một thể thống nhất, thì phải đòi hỏi đến một sự suy nghĩ cẩn thận, nó đòi hỏi một sự suy nghĩ thấu đáo, một trí tuệ minh mẫn, mạnh mẽ và tổng hợp… Nếu quá vì quyền tự do sẽ dẫn đến tình trạng vô Chính phủ, nhưng ngược lại nếu quá vì kìm hãm sẽ dẫn đến sự độc tài. Nhà nước là một hiện tượng xã hội, nó cũng có nội dung và hình thức thể hiện của mình.
3.1. Mối Quan Hệ Giữa Nội Dung và Hình Thức Nhà Nước
Trong triết học, hình thức và nội dung là một trong sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật. Nó phản ánh mối quan hệ qua lại giữa hai mặt của hiện tượng tự nhiên và xã hội. Nếu nội dung là toàn bộ những yếu tố và sự tương tác giữa các yếu tố đó với nhau và với các sự vật và hiện tượng khác, cấu thành nên sự vật và hiện tượng được nghiên cứu thì hình thức là phương thức tồn tại và biểu hiện của nội dung đó và biểu hiện khác nhau của nó, là tổ chức bên trong của nó. Không có hình thức nào lại không chứa đựng nội dung, cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung là mặt chủ đạo, năng động quyết định khách thể, còn hình thức là mặt tương đối ổn định của khách thể, thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của nội dung. Nhưng hình thức cũng có sự tác động trở lại nội dung.
3.2. Hình Thức Chính Thể Cách Thức Tổ Chức Quyền Lực
Hình thức Nhà nước là thuật ngữ chuyên ngành luật Hiến pháp và của một số ngành khoa học xã hội khác nhằm khái quát hoá mô hình Nhà nước thông qua những đặc điểm thể hiện nội dung của các yếu tố cấu thành là các bộ phận tạo ra bộ máy nhà nước và mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng với nhau. Hình thức nhà nước được phân tích dưới nhiều lăng kính khác nhau, cho chúng ta các cách hiểu khác nhau về nhà nước. Hình thức chính thể là một dạng của hình thức nhà nước, bên cạnh hình thức cơ cấu lãnh thổ. Khi xác định hình thức chính thể của một quốc gia trước tiên người ta xác định cách thức thành lập nguyên thủ quốc gia, tiếp đến là cách thức thành lập, vị trí, vai trò của các cơ quan Bộ máy nhà nước mà chủ yếu là cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp.
IV. So Sánh Các Mô Hình Chính Thể Cộng Hòa và Quân Chủ
Như đã nói ở trên, hình thức chính thể hiện nay chia làm hai dạng: Chính thể cộng hòa và chính thể quân chủ. Trong đó mô hình chính thể cộng hòa chia ra làm ba loại: chính thể cộng hòa đại nghị, chính thể cộng hòa tổng thống, chính thể cộng hòa lưỡng tính. Mô hình chính thể quân chủ có hai loại: quân chủ tuyệt đối và quân chủ lập hiến. Chính thể cộng hòa Đây là mô hình phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. Mô hình này được coi là mô hình tiến bộ hơn mô hình quân chủ, bởi lẽ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở chính thể này do dân bầu lên, do vậy nhân dân có những quyền hạn nhất định trong tổ chức cũng như hoạt động của Bộ máy nhà nước, điều này không giống như chế định Nguyên thủ quốc gia và các cơ quan nhà nước ở chính thể quân chủ.
4.1. Ưu Điểm của Chính Thể Cộng Hòa Dân Chủ
Tuy nhiên sự tiến bộ này cũng phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định cũng như tương quan trong sự so sánh các giai cấp. Trong lịch sử cũng đã tồn tại những mô hình chính thể mang tên “cộng hòa” như cộng hòa nô lệ, cộng hòa phong kiến nhưng thực chất đó là chuyên chế nô lệ, chuyên chế phong kiến, người dân không những không được hưởng lợi ích gì mà còn bị áp bức, bóc lột. Thuật ngữ “cộng hoà” có nguồn gốc từ thành ngữ Hy Lạp “Respublica est res populi”, có nghĩa là “Nhà nước là công việc của nhân dân”. Mô hình tổ chức Nhà nước này xuất hiện từ thời cổ đại La Mã - Hy Lạp. Nhưng sang đến chế độ chính trị phong kiến nó bị loại dần, mãi đến chế độ chính trị tư bản mới trở thành mô hình phổ biến.
4.2. Phân Loại Chính Thể Cộng Hòa Đại Nghị Tổng Thống Lưỡng Tính
Mô hình chính thể cộng hòa thường chia thành hai loại chính: chính thể cộng hòa đại nghị - là chính thể, ở đó cơ quan lập pháp và hành pháp có sự phụ thuộc vào nhau, phối kết hợp với nhau trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan mình; còn không có sự kết hợp hay phụ thuộc vào nhau là chính thể cộng hòa tổng thống. Ngoài ra còn có hình thức chính thể cộng hòa lưỡng tính. Đây là hình thức tổ chức nhà nước vừa có điểm giống chính thể cộng hòa đại nghị lại vừa có điểm giống chính thể cộng hòa tổng thống. Ngoài ra việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực một cách mềm dẻo giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở chính thể này góp phần hạn chế sự lạm quyền một cách hiệu quả.
V. Phân Tích Hiến Pháp 1946 Nền Tảng Chính Thể Việt Nam
Chính thể cộng hòa đại nghị Đây là mô hình tổ chức nhà nước mà về nguyên tắc Nghị viện đóng vai trò là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước cao hơn các cơ quan khác. Đây là cơ quan do nhân dân trực tiếp (gián tiếp) bầu ra nên có nhiều quyền lực. Cơ quan này có chức năng lập pháp, đặt ra những quy định khuôn mẫu cho tổ chức, hoạt động các cơ quan nhà nước khác và các hành vi của công dân, xã hội; mặt khác có chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành pháp, do lập pháp thành lập ra, chịu trách nhiệm trước lập pháp. Nguyên tắc “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện” là cơ sở để Nghị viện giải tán Chính phủ.
5.1. Vai Trò của Nghị Viện trong Chính Thể Đại Nghị
Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu sẽ không chịu trách nhiệm trước nguyên thủ quốc gia mà chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nguyên thủ quốc gia trong chính thể này không hình thành bằng con đường “cha truyền con nối” như chính thể quân chủ đại nghị mà bằng con đường bầu cử, do Nghị viện bầu lên. Do vậy Nguyên thủ quốc gia chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu sẽ không chịu trách nhiệm trước Nguyên thủ quốc gia mà chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chính xuất phát từ lý do nguyên thủ quốc gia không do nhân dân bầu lên nên Nguyên thủ quốc gia không có thực quyền dù được Hiến pháp quy định là có thẩm quyền rộng rãi.
5.2. Nguyên Tắc Không Chịu Trách Nhiệm của Nguyên Thủ Quốc Gia
Ở tất cả các Bản Hiến pháp của các quốc gia theo hình thức chính thể cộng hòa đại nghị đều ghi nhận Nguyên thủ quốc gia không đứng đầu hành pháp và cũng không là thành viên của hành pháp. Ngoài ra ở các nước theo mô hình chính thể cộng hòa đại nghị hay quân chủ đại nghị đều ghi nhận nguyên tắc “không chịu trách nhiệm” của Nguyên thủ quốc gia. Khoản 1, Điều 90 Hiến pháp Cộng hoà Ý: “Tổng thống nước cộng hoà không phải chịu trách nhiệm về những hành động thực hiện trong quá trình thực thi nghĩa vụ Tổng thống, trừ trường hợp phạm tội phản quốc hoặc vi phạm Hiến pháp”, bên cạnh đó còn có quốc gia vẫn quy định việc chịu trách nhiệm của tổng thống khi thực hiện chức trách của mình trước Quốc hội liên bang như quy định trong Hiến pháp cộng hòa Áo.
VI. Hiến Pháp Việt Nam Hiện Hành Đánh Giá và Triển Vọng Phát Triển
Một số quốc gia quy định khi một cá nhân được bầu làm Tổng thống thì người đó phải từ bỏ Đảng phái, điều này khó thực hiện bởi lẽ việc giới thiệu người ứng cử, hay khi tranh cử thì chí ít cũng phải được sự ủng hộ của Đảng. Mặt khác để chứng minh cho việc không trung lập của Tổng thống, đó là trên thực tế văn bản do tổng thống ký chỉ có hiệu lực khi có chữ ký “phó thự”của các hàm Bộ trưởng hay trên Bộ trưởng. Điều này thể hiện sự vô tư của Tổng thống khi người trực tiếp chịu trách nhiệm về văn bản do Tổng thống ban hành là người ký phó thự. Ngoài ra Hiến pháp của các quốc gia theo loại hình chính thể cộng hòa đại nghị còn quy định Tổng thống là người bổ nhiệm người đứng đầu Chính phủ nhưng quy cách bổ nhiệm như thế nào lại không được quy định rõ.
6.1. Vai Trò Bổ Nhiệm Thủ Tướng của Tổng Thống
Thay vào đó là sự bổ sung của tập tục không thành văn, người đứng đầu cơ quan hành pháp là người được đa số sự ủng hộ của Nghị sĩ trong Nghị viện. Vậy Tổng thống không còn sự lựa chọn nào khác là bầu người đứng đầu của Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị trường làm Thủ tướng. Tất cả các phân tích trên đều chứng tỏ rằng Nguyên thủ quốc gia ở chính thể cộng hòa đại nghị là người không có thực quyền. Mọi quyết định của Tổng thống đều có sự đề nghị hay yêu cầu từ phía hành pháp. Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong c...