I. Tổng Quan Về Đặc Điểm Ngôn Ngữ Trong Thơ Nguyễn Thị Mai
Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, nơi hội tụ cảm xúc và hình ảnh. Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, đóng góp của các nhà thơ nữ là vô cùng quan trọng. Mỗi nhà thơ lại có cách vận hành ngôn ngữ riêng biệt. Luận văn này nghiên cứu thơ Nguyễn Thị Mai trên phương diện ngôn ngữ, nhằm tìm ra những nét riêng trong cách vận hành ngôn ngữ của nhà thơ, từ đó đánh giá đóng góp của nhà thơ đối với văn học nước nhà. Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc sử dụng ngôn ngữ trong thơ ca đã bị pha tạp rất nhiều. Nguyễn Thị Mai ý thức được điều đó và góp phần gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. Dù vậy, trong thơ Nguyễn Thị Mai vẫn có những cái mới, cái lạ trong cách dùng từ mà không nhà thơ nào có được, đặc biệt là trong thơ lục bát. Hơn thế, Nguyễn Thị Mai còn là một cô giáo dạy văn nên từ ngôn ngữ thơ giảng dạy trong nhà trường cho đến ngôn ngữ thơ ca đời thường có sự giao thoa, hòa quyện với nhau tạo nên tứ thơ rất lạ, lôi cuốn người đọc.
1.1. Nguyễn Thị Mai và Phong Cách Thơ Trữ Tình Độc Đáo
Nguyễn Thị Mai sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Cuộc đời cô nhiều thăng trầm, lam lũ, sớm bươn trải với cuộc đời. Có lẽ những khổ đau vất vả đầu đời đã giúp Nguyễn Thị Mai nghị lực vươn lên, sớm biết tự lập, để học tập, công tác và trở thành thi sĩ có những rung cảm viết nên những tác phẩm đầy xúc động sau này. Cũng có lẽ vì những điều đó mà khi đọc thơ Nguyễn Thị Mai ta thấy được sự ấm áp, đôn hậu, dịu dàng nhưng không hề đơn điệu, nệ cổ.
1.2. Nguyễn Thị Mai Đóng Góp Cho Thơ Nữ Việt Nam Hiện Đại
Nguyễn Thị Mai - nhà thơ, giảng viên, từng là ủy viên Ban Chấp hành lâm thời từ ngày đầu thành lập hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) và tiếp tục trúng ủy viên BCH, Trưởng tiểu ban Văn học thiếu nhi khóa đầu tiên sau Đại hội lần thứ nhất hội văn học nghệ thuật tỉnh rồi cán bộ Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Với bút danh Hạnh Hoa Nguyễn Thị Mai đã trở thành quen thuộc với biết bao bạn đọc trên khắp cả nước. Cô rất có duyên với giải thưởng, thi đâu được đấy.
II. Vấn Đề Sử Dụng Ngôn Ngữ Trong Thơ Nguyễn Thị Mai Hiện Nay
Dù là một cây bút sáng giá của thi ca Hà Nội nhưng những bài viết, bài nghiên cứu về cô chưa nhiều và cũng chưa mang tính hệ thống. Những nghiên cứu về ngôn ngữ thơ của Nguyễn Thị Mai lại càng ít. Chính vì lí do đó, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu kết quả nghiên cứu “Đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Thị Mai”. Do vậy, chúng tôi hy vọng mong muốn kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về thơ Nguyễn Thị Mai, góp phần khẳng định đóng góp của nhà thơ với nền thơ ca nước nhà. Việc nghiên cứu và tiếp nhận tác giả, tác phẩm thơ Nguyễn Thị Mai, từ trước đến nay đã thu hút được sự chú ý của một số người.
2.1. Thiếu Nghiên Cứu Chuyên Sâu Về Ngôn Ngữ Thơ Nguyễn Thị Mai
Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi, đã có một số tờ báo, bài báo trong nước, trong tỉnh nghiên cứu về nhà thơ Nguyễn Thị Mai. Cụ thể cho tới nay có khoảng hơn 10 bài viết giới thiệu, bình phẩm thơ Nguyễn Thị Mai. Tác giả Lâm Xuân Vi là người có nhiều bài viết về Nguyễn Thị Mai nhất với các bài viết: Nguyễn Thị Mai đời và thơ như tôi biết, Sợi nhớ vô hình quấn theo, Có một thợ trăng của nữ nhi Cửu Vân, Đọc tập thơ “Không xóa nổi lời hoa” với đôi lời cảm nghĩ.
2.2. Thách Thức Trong Việc Tiếp Cận và Phân Tích Thơ Nguyễn Thị Mai
Ngoài ra còn có một số tác giả khác viết về Nguyễn Thị Mai như: PGS.TS Trần Thị Trâm (Bức chân dung tâm hồn người đàn bà Việt trong thơ Nguyễn Thị Mai); Lê Hoài Nam (Người biết giữ thăng bằng giữa thơ và đời); Công Nhuệ (Gửi người lục bát hồn quê); Bùi Kim Anh (Nhà thơ Nguyễn Thị Mai: Đằm thắm nghĩa tình thơ lục bát); Dương Hiền Nga (Dương Hiền Nga đọc “Qua hàng trầu nhớ mẹ” của Nguyễn Thị Mai); Hoài Hương (Nguyễn Thị Mai: Thơ là sự chân thực về cảm xúc).
III. Phân Tích Ngôn Ngữ Thơ Nguyễn Thị Mai Thể Thơ Vần Nhịp
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Trình bày những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài. Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Thị Mai xét về mặt hình thức: thể thơ, vần, nhịp. Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Thị Mai xét về mặt từ ngữ và các biện pháp tu từ thường được nhà thơ sử dụng. Phương pháp miêu tả Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các kiểu cấu trúc tiêu biểu của thơ Nguyễn Thị Mai.
3.1. Đặc Điểm Về Thể Thơ Trong Sáng Tác Của Nguyễn Thị Mai
Phương pháp phân tích Phương pháp này được dùng để phân tích các hiện tượng sử dụng ngôn từ, tín hiệu thẩm mĩ, cấu trúc ngôn ngữ nhằm rút ra đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ Nguyễn Thị Mai. Thủ pháp thống kê, phân loại Đây là thủ pháp được sử dụng để thu thập và phân loại những câu thơ, bài thơ chứa đựng hiện tượng ngôn ngữ cần nghiên cứu.
3.2. Vai Trò Của Vần Và Nhịp Điệu Trong Thơ Nguyễn Thị Mai
Có thể xem đây là đề tài đầu tiên đi vào tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Mai ở hai bình diện hình thức biểu đạt và nội dung, từ đó chỉ ra những đóng góp riêng đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Thị Mai từ góc độ ngôn ngữ học. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
3.3. Phong Cách Sử Dụng Vần Lục Bát Đặc Trưng Của Nguyễn Thị Mai
Chương 2: Đặc điểm về thơ, vần, nhịp và cách tổ chức bài thơ trong thơ Nguyễn Thị Mai. Chương 3: Từ ngữ và các biện pháp tu từ thường gặp trong thơ Nguyễn Thị Mai. Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Khái niệm thơ Thơ là một loại hình nghệ thuật dùng ngôn ngữ làm chất liệu, dưới sự chắt lọc ngôn từ cũng như cách kết cấu của chúng được sắp xếp một cách logic nhất định tạo nên hình tượng, âm thanh gây ấn tượng cho người đọc và người nghe.
IV. Từ Ngữ Và Biện Pháp Tu Từ Trong Thơ Nguyễn Thị Mai Phân Tích
Thơ là loại hình văn học có bề dày lịch sử. Có thể nói trong khoảng thời gian từ 384-322 TCN ở châu Âu đã có định nghĩa về thơ và nó được xuất phát từ nhà hiền triết người Hi Lạp Aristotle. Còn ở Việt Nam có thể coi thơ bắt nguồn từ những câu ca dao tục ngữ có vần điệu mà thành. Thơ, Thơ ca hay thi ca, là thuật ngữ dùng để chỉ loại hình nghệ thuật sáng tạo tổng hòa các mặt: âm nhạc, nhịp điệu, hội họa nhưng phải ngắn gọn, cô đọng súc tích. Vậy thơ là gì? Đây là một câu hỏi vẫn còn nhiều sự tranh cãi của giới chuyên ngành và chưa đi đến một sự thống nhất.
4.1. Khám Phá Thế Giới Từ Ngữ Đa Dạng Trong Thơ Nguyễn Thị Mai
Hơn thế ở mỗi nền văn hóa lại có những quan niệm, nhận định, định nghĩa về thơ rất khác nhau. Alfred De Vigny (1797-1863) - một trong những nhà thơ nổi tiếng của Pháp nhận định: “Thơ là sự đẹp tuyệt trần của sự vật, và sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy trong lý tưởng”. Stéphane Mallarmé (1842-1898) cho rằng: “Thơ là một sự tái tạo lí tính của vũ trụ”… “Thơ ca là sự biểu hiện ý nghĩa bí ẩn của sinh tồn, nhờ ngôn ngữ của con người được cô đọng vào tiết tấu thiết yếu của nó” (theo Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XIX, tr.327); hay “Thơ là tham vọng của một diễn từ mang chở nhiều nghĩa hơn và được trộn lẫn với nhiều âm nhạc hơn là ngôn ngữ thông thường không mang và cũng không thể mang trong nó” (Valéry, Sự chuyển tiếp của Verlaine,1921, Tập văn).
4.2. Biện Pháp Tu Từ Nổi Bật Và Vai Trò Tạo Nên Phong Cách Thơ
Laurence Ferlinghetti - nhà thơ cuối cùng của thế hệ “Beat generation” - nhóm nhà thơ “không tùy thời” vào những năm 50 của thế kỉ XX tại Mĩ đã có nhiều định nghĩa về thơ rất mới lạ được in trong một bài viết có tên “52 định nghĩa về thơ để sử dụng trong thế kỉ XXI” như sau: “Thơ,đó là những cách đi đến nơi tận cùng của ý thức”, “Thơ, là chiếc lá thối lọi của tưởng tượng. Nó phải rực sáng và làm cho bạn gần như mù quáng”, “Thơ, được tạo thành bởi những quầng sáng tan dần trong đại dương âm thanh”, “Thơ, là cái gì tồn tại giữa các dòng chữ”, “Thơ là một tiếng nói li khai chống lại sự lãng phí từ ngữ và sự thừa thãi điên rồ của chữ in”…(Thơ là gì? Báo Thơ, 24, tháng 6/2005, tr 21).
V. Ứng Dụng Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Thơ Nguyễn Thị Mai Vào Giảng Dạy
Ở phương Đông, trong nền văn học trung đại của Trung Quốc, khái niệm “thơ là gì?” đã được luận bàn từ rất sớm. Ngược dòng thời gian trở về đời Đường ta thấy, nhà thơ Bạch Cư Dị đã đưa ra các yếu tố cốt yếu tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: “Cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. Nhận định này của Bạch Cư Dị đã nêu lên mối quan hệ gắn bó giữa các nhân tố cấu thành nên một tác phẩm, cũng giống như một chỉnh thể ngoài đời thực là gốc rễ, mầm lá, hoa, quả luôn gắn liền với nhau.
5.1. Phương Pháp Tiếp Cận Thơ Nguyễn Thị Mai Cho Học Sinh Sinh Viên
Ở Việt Nam, khái niệm “thơ là gì?” đã được giới chuyên ngành đưa ra luận bàn với nhiều quan điểm rất khác nhau. Trước tiên phải kể đến nhà thơ Chế Lan Viên với quan niệm: “Thơ là thể loại văn học có độ hàm súc cao, là sự dồn nén cảm xúc đến mức cô đúc”.Và thật thiếu xót khi ta không đưa ra định nghĩa về thơ của Phan Ngọc- một dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc, và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này”[41, tr 23].Qua đó ông đi đến khẳng định muốn định nghĩa về thơ phải đáp ứng các điều sau: -
5.2. Bài Học Về Sử Dụng Ngôn Ngữ Trong Thơ Nguyễn Thị Mai
Có giá trị phổ quát, - Mang tính hình thức giúp người ta nhận diện được thơ, không cần phải có kinh nghiệm và hiểu biết nghệ thuật, - Giúp người ta nắm được thực chất của thơ, để làm thơ, đọc thơ, giảng thơ có kết quả. Nhà thơ Mã Giang Lân trong cuốn Tìm hiểu thơ đã đưa ra định nghĩa rằng: “Thơ là một thông báo thẩm mĩ trong đó kết hợp bốn yếu tố: Ý- Tình- Hình- Nhạc”, sau khi ông tóm tắt toàn bộ các quan niệm, nhận định về thơ từ trước đến nay.
VI. Đánh Giá Đặc Điểm Ngôn Ngữ Trong Thơ Nguyễn Thị Mai Kết Luận
Còn theo nhóm tác giả phê bình và nghiên cứu Văn học Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức sáng tạo văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”.[22, tr 309] Như vậy, theo bề dày lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã có rất nhiều nhận định, định nghĩa về thơ qua đó ta có thể rút ra một số đặc điểm chung của thơ ca như sau: Thơ là một phức hợp của hệ thống ngôn từ có tổ chức, có vần điệu, nhịp điệu, bộc lộ cảm xúc của tác giả bằng hình ảnh thông qua ngôn từ.
6.1. Giá Trị Nghệ Thuật Và Đóng Góp Của Thơ Nguyễn Thị Mai
Đối với mỗi tác phẩm văn học thì ngôn ngữ chính là nguyên căn tạo dựng nên nó; mỗi thể loại lại có một thứ ngôn ngữ khác nhau với những nét đặc trưng khu biệt mà chỉ thể loại đó mới có. Và với ngôn ngữ thơ thì tính đặc trưng đó lại càng đậm nét bởi: đối với thơ ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện, là mục đích hướng tới. Có thể nói ngôn từ trong tác phẩm thơ ca được sử dụng một cách hữu hạn, bởi dung lượng ngôn ngữ thơ ca hạn chế nhất trong các thể loại văn học. Quả đúng như một nhà thơ đã từng nói ngôn ngữ thơ ca được “đúc lại như huân chương”.
6.2. Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo Về Thơ Nguyễn Thị Mai
hay nói như Pautôpxki: “Những chữ sơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, đã mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại sáng lấp lánh lại kêu giòn và tỏa hương”. Cũng bởi vì lẽ thế mà ta có thể coi ngôn ngữ thơ là đỉnh cao của sự chắt lọc nên chính vì vậy mà MaiaCốpxki cho rằng: “Quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng giống như những người lọi quặng ra đi um, lọi lấy tinh chất, tìm ra trong những cái bộn bề của những tấn quặng từ đẹp, ánh sáng kim cương”.“Thơ ca là cái tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là cái ánh ngời phi thường của nó, chỗ rách cảm động nhất của nó”. Trong cuốn “ngôn ngữ thơ Việt Nam”, PGS. TS Nguyễn Hữu Đạt đã nhận định về cách tổ chức ngôn ngữ thơ như sau: “được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và súc tích nhất với cách tổ chức ngôn ngữ có vần điệu và các quy luật phối âm riêng của từng ngôn ngữ” [11, tr. TS Nguyễn Thiện Giáp: “Do yêu cầu thể hiện thế giới nội tâm, thế giới tinh thần, cách tổ chức ngôn ngữ của thơ khác hẳn cách dùng lời nói của các phong cách chứ năng phi nghệ thuật”[20, tr.