I. Tổng Quan Về Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm tính đúng đắn và công bằng của các bản án. Đây là quyền năng pháp lý đặc biệt của Viện kiểm sát, xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Mục đích chính là nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Theo khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.1. Khái Niệm Kháng Nghị Phúc Thẩm Theo Luật Tố Tụng
Kháng nghị phúc thẩm là việc Viện kiểm sát không đồng ý với bản án sơ thẩm của Tòa án và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án. Điều này nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan. Theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và điểm o khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015 thì, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự (VAHS), Viện trưởng VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn “kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này”.
1.2. Ý Nghĩa Của Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự
Kháng nghị phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng và đúng pháp luật của quá trình xét xử. Nó giúp phát hiện và sửa chữa những sai sót trong bản án sơ thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án. VKS có nhiệm vụ kháng nghị các bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) chưa có hiệu lực pháp luật nhưng xét thấy không đúng pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử, nhằm bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật.
II. Thực Trạng Kháng Nghị Phúc Thẩm Tại Việt Nam Hiện Nay
Thực tiễn kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS và chất lượng kháng nghị của VKSND từng bước đã được nâng lên, về cơ bản các quyết định kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND đã đảm bảo về hình thức, nội dung, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận ngày một tăng cao thì vẫn còn nhiều bất cập, quy định không rõ ràng, không qui định về hệ thống các căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS, không qui định đối tượng và nội dung của kháng nghị phúc thẩm.
2.1. Bất Cập Trong Quy Định Về Căn Cứ Kháng Nghị Phúc Thẩm
Một trong những vấn đề lớn nhất là sự thiếu rõ ràng trong quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Điều này dẫn đến việc một số quyết định kháng nghị không đúng luật, chỉ nêu lý do một cách chung chung, gây khó khăn cho Tòa án cấp phúc thẩm và ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng. Một mặt, do nhận thức của một số cán bộ, kiểm sát viên không đầy đủ, nên đã có nhiều quyết định kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND không đúng luật, không nêu được lý do kháng nghị mà chỉ nêu một cách chung chung như, không thỏa đáng, không đảm bảo tính nghiêm minh, không công bằng… để yêu cầu xét xử phúc thẩm, điều đó đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm.
2.2. Tình Hình Gia Tăng Các Vụ Án Xét Xử Phúc Thẩm
Trong những năm gần đây, số lượng các bản án sơ thẩm bị xét xử theo thủ tục phúc thẩm có xu hướng gia tăng, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Việc nội dung đề nghị xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm VAHS được chấp nhận cũng có nghĩa là số lượng bản án (quyết định) chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị nhiều hơn, các VAHS sơ thẩm được xét xử lại một cách khách quan hơn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người tham gia tố tụng, nhưng cũng có những vụ việc bị xử đi, xử lại nhiều lần dẫn đến tốn kém về cả thời gian, công sức và tiền bạc của cả Nhà nước và công dân, làm cho người dân mất lòng tin vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
III. Hoàn Thiện Quy Định Về Thủ Tục Kháng Nghị Phúc Thẩm
Cùng với xu hướng chung của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và nhà nước ta đang đặt ra theo tinh thần của Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/05/20056 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là: Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp [4, tr.3]
3.1. Cải Cách Thủ Tục Tố Tụng Hình Sự Theo Hướng Dân Chủ
Việc cải cách thủ tục tố tụng hình sự theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch là yêu cầu cấp thiết. Điều này đòi hỏi sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, đồng thời bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 được thể hiện tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của BCHTW Đảng đó là: Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người [5, tr.
3.2. Nâng Cao Chất Lượng Tranh Tụng Tại Phiên Tòa
Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là yếu tố then chốt để bảo đảm tính khách quan và công bằng của quá trình xét xử. Cần tạo điều kiện để các bên tham gia tố tụng trình bày đầy đủ quan điểm, chứng cứ và lập luận của mình, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên. và “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao” [5, tr.
IV. Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kháng Nghị Phúc Thẩm
Thực hiện Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19-6-2008 về "Tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự" của Viện trưởng VKSND tối cao. Trong những năm 2010 đến 2014, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS đối với bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự của TAND đã đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS còn không ít bất cập do xuất phát từ nguyên nhân chủ quan cũng như nguyên nhân khách quan, tuy ít nhiều ở mức độ khác nhau.
4.1. Đào Tạo Bồi Dưỡng Nâng Cao Năng Lực Kiểm Sát Viên
Nâng cao năng lực cho đội ngũ kiểm sát viên là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm. Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho kiểm sát viên. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu và phân tích sâu sắc tất cả những vấn đề về kháng nghị phúc thẩm VAHS, từ khái niệm cho đến những dạng thức, nguyên nhân tồn tại và hiệu quả của nó, để thể chế hóa thành những quy định của BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm VAHS, việc tìm hiểu quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 về kháng nghị phúc thẩm VAHS, làm rõ một số bất cập của qui định về công tác này, từ đó nêu lên các định hướng hoàn thiện nhằm góp phần làm cho các quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 sát với thực tiễn, nâng cao công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKS .
4.2. Tăng Cường Kiểm Tra Giám Sát Hoạt Động Kháng Nghị
Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kháng nghị phúc thẩm là biện pháp quan trọng để bảo đảm tính đúng đắn và hiệu quả của công tác này. Cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)” làm luận văn thạc sỹ luật học là có tính cấp bách và cần thiết trong thời điểm hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đồng thời đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm kháng nghị phúc thẩm
V. Nghiên Cứu Thực Tiễn Kháng Nghị Phúc Thẩm Tại Hà Giang
Việc nghiên cứu thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm tại địa bàn tỉnh Hà Giang trong giai đoạn 2010-2014 giúp đánh giá khách quan hiệu quả áp dụng pháp luật và nhận diện những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Từ đó, có thể đề xuất các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng công tác này tại địa phương. VAHS và định hướng hoàn thiện BLTTHS năm 2015 (gồm 510 Điều) chưa có, nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị các VAHS ở cấp phúc thẩm, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong tình hình mới.
5.1. Đánh Giá Kết Quả Đạt Được Trong Công Tác Kháng Nghị
Cần đánh giá một cách toàn diện những kết quả đã đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm tại Hà Giang, bao gồm số lượng vụ án được kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được chấp nhận và tác động của kháng nghị đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Tình hình nghiên cứu Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS đã được ngành Kiểm sát quan tâm, đầu tư đúng mức, thể hiện thông qua Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19-06-2008 của Viện trưởng VKSND tối cao, thể hiện thông qua việc tổ chức các hội thảo, hội nghị, tổng kết rút kinh nghiệm của ngành kiểm sát.
5.2. Phân Tích Tồn Tại Và Nguyên Nhân Trong Kháng Nghị Phúc Thẩm
Bên cạnh những kết quả đạt được, cần phân tích sâu sắc những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó, bao gồm những hạn chế trong quy định của pháp luật, những khó khăn trong thực tiễn áp dụng và những yếu tố chủ quan từ phía cán bộ, kiểm sát viên. Ngoài ra, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND còn được một số nhà khoa học - Luật gia hình sự quan tâm nghiên cứu, thể hiện ở một số sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình đại học, trong đó phải kể đến các công trình ở những cấp độ khác nhau.
VI. Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Kháng Nghị
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân, cần đề xuất các định hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về kháng nghị phúc thẩm, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tiễn. Các giải pháp cần tập trung vào việc làm rõ các quy định của pháp luật, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát. Ý nghĩa của luận văn Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý l
6.1. Làm Rõ Các Quy Định Về Căn Cứ Kháng Nghị
Cần làm rõ các quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm, xác định rõ những trường hợp nào thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, đồng thời quy định cụ thể về nội dung và hình thức của quyết định kháng nghị. luận về kháng nghị phúc thẩm VAHS cũng như thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về công tác này trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014, luận văn đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về kháng nghị phúc thẩm và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn.
6.2. Hoàn Thiện Quy Trình Thủ Tục Kháng Nghị Phúc Thẩm
Cần hoàn thiện quy trình, thủ tục kháng nghị phúc thẩm, bảo đảm tính minh bạch, công khai và hiệu quả của quá trình này. Đồng thời, cần quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong quá trình kháng nghị. Các nhiệm vụ của luận văn Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của VKSND; Hai là, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2003 về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS trong hệ thống VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng như thực tiễn và hiệu quả áp dụng các qui định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang (Năm 2010 - 2014).