Trường đại học
Hanoi University Of Languages And International StudiesChuyên ngành
English Teaching MethodologyNgười đăng
Ẩn danhThể loại
Minor Programme Thesis2010
Phí lưu trữ
30.000 VNĐMục lục chi tiết
Tóm tắt
Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, đòi hỏi sự thay đổi trong hệ thống giáo dục. Giáo dục không chỉ trang bị kiến thức mà còn phát triển tư duy, sáng tạo và kỹ năng làm việc nhóm. Trong dạy tiếng Anh, tương tác trong lớp học là yếu tố then chốt. Thay vì nhấn mạnh thành tích cá nhân và truyền đạt thông tin một chiều, cần tạo điều kiện cho học sinh chủ động tham gia vào quá trình học, phát triển các kỹ năng cần thiết cho thị trường lao động. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc học tiếng Anh là sử dụng hiệu quả trong giao tiếp. Kỹ năng nói đóng vai trò quan trọng, đặc biệt khi sách giáo khoa mới được áp dụng, kỹ năng này được chú trọng hơn ở các trường THPT. Người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra những phương pháp làm cho các bài học nói trở nên thú vị và hiệu quả hơn. Thay vì sử dụng các hoạt động đòi hỏi sự lặp lại chính xác và ghi nhớ các câu và cấu trúc ngữ pháp, cần có các hoạt động yêu cầu người học đàm phán ý nghĩa và tương tác có ý nghĩa.
Kỹ năng nói đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tiếng Anh. Ur (1996:120) nhận định, nói là kỹ năng quan trọng nhất trong bốn kỹ năng. Người biết một ngôn ngữ được gọi là 'người nói' ngôn ngữ đó. Phần lớn người học ngoại ngữ quan tâm đến việc học nói. Vì vậy, giáo viên cần chú trọng đến việc dạy kỹ năng nói. Việc phát triển kỹ năng giao tiếp chỉ có thể diễn ra nếu người học có động lực và cơ hội thể hiện bản sắc và kết nối với mọi người xung quanh. Điều này đòi hỏi một môi trường học tập mang lại cho họ cảm giác an toàn và được coi trọng như những cá nhân.
CLT nhấn mạnh việc học giao tiếp thông qua tương tác bằng ngôn ngữ đích. CLT đưa các văn bản xác thực vào tình huống học tập, tạo cơ hội cho người học tập trung vào ngôn ngữ và quá trình học tập. CLT coi kinh nghiệm của người học là yếu tố đóng góp quan trọng vào việc học tập trên lớp, cố gắng kết nối việc học ngôn ngữ trên lớp với việc sử dụng ngôn ngữ bên ngoài lớp học. CLT là phương pháp giảng dạy nhấn mạnh sự lưu loát hơn là độ chính xác. Richards và Rogers (2001:158) nhấn mạnh rằng một khía cạnh của CLT là 'quan điểm lấy người học làm trung tâm và dựa trên kinh nghiệm về việc dạy ngôn ngữ thứ hai'. Giáo viên là 'người hỗ trợ' thay vì 'người truyền đạt' kiến thức. Lớp học CLT có sự tham gia cao, trở thành nơi để học sinh tham gia vào việc sử dụng ngôn ngữ có ý nghĩa.
Dạy kỹ năng nói tiếng Anh ở bậc THPT tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức. Học sinh thiếu môi trường giao tiếp tự nhiên như người bản xứ. Để giúp học sinh làm chủ ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các bài học nói thú vị và hiệu quả. Cần thay đổi từ các hoạt động yêu cầu lặp lại chính xác và ghi nhớ sang các hoạt động đàm phán ý nghĩa và tương tác có ý nghĩa. Sự tự tin của học sinh khi nói tiếng Anh trước lớp vẫn là một vấn đề cần được giải quyết. Các hoạt động trên lớp cần tạo sự thoải mái và khuyến khích cho các em.
Học sinh thường cảm thấy lo lắng khi nói trước cả lớp. Ngược lại, ít lo lắng hơn khi nói trong nhóm nhỏ. Thêm vào đó, khi một học sinh đại diện cho nhóm và báo cáo cho cả lớp, học sinh đó cảm thấy được hỗ trợ nhiều hơn vì câu trả lời không chỉ đến từ một học sinh mà đến từ cả nhóm (Lie, 2000: 125). Do đó, người học có thể cảm thấy bớt lo lắng và tự tin hơn khi tương tác với bạn bè trong các hoạt động theo cặp hoặc nhóm nhỏ so với trong các cuộc thảo luận toàn lớp. Rõ ràng là học tập hợp tác là một chiến lược hiệu quả cho các lớp học có người học ngôn ngữ tiếng Anh.
Một số học sinh có trình độ tiếng Anh tốt hơn và tham gia tích cực hơn, trong khi những học sinh khác ít tự tin hơn hoặc gặp khó khăn trong việc diễn đạt ý tưởng. Cần có các biện pháp để đảm bảo rằng tất cả học sinh đều có cơ hội đóng góp và phát triển kỹ năng nói. Giáo viên có thể tạo ra các nhóm công bằng để tất cả học sinh tham gia nhiều nhất có thể và quy định trách nhiệm cho mọi người khi thực hiện một nhiệm vụ hoặc một mức hiệu suất.
Học tập hợp tác được chấp nhận rộng rãi như một cách để giáo viên thúc đẩy sự tương tác này để mang lại lợi ích cho tất cả học sinh và thu hút họ vào quá trình học tập. Hợp tác có nghĩa là nhiều hơn là đặt học sinh vào các nhóm. Điều đó có nghĩa là sự tham gia của nhóm vào dự án trong đó kết quả là từ nỗ lực chung, mục tiêu được chia sẻ và thành công của mỗi người được liên kết với thành công của mọi người khác. Trong thực tế, điều này có nghĩa là ý tưởng và tài liệu được chia sẻ, lao động được phân chia và mọi người trong nhóm đều được khen thưởng vì đã hoàn thành nhiệm vụ thành công.
Sự thành công của các hoạt động hợp tác thường được xác định bởi cách giáo viên thực hiện trước khi học sinh bắt đầu hoạt động. Do đó, giáo viên phải quyết định trước cách sắp xếp chỗ ngồi để hoạt động có thể được thực hiện hiệu quả. Trong công việc theo cặp, thông thường là yêu cầu học sinh làm việc với người ngồi trực tiếp phía trước hoặc phía sau hoặc bên cạnh họ trong lớp. Mặt khác, học sinh nên được khuyến khích di chuyển chỗ ngồi để thay đổi đối tác của mình. Trong công việc nhóm, tốt hơn nếu học sinh có thể di chuyển ghế hoặc bàn để tạo thành một vòng tròn (ghế) hoặc hình vuông (bàn) hoặc hình chữ U. Thực tế, việc sắp xếp đồ đạc là cố định nên giáo viên thường thấy khó thực hiện như thế này. Tuy nhiên, việc nhóm học sinh không cần phải sắp xếp lại tất cả đồ đạc trong phòng. Nó có thể có nghĩa là học sinh làm việc theo nhóm ba người ngồi cạnh nhau trên băng ghế dự bị, hoặc thậm chí quay lại và tạo thành các nhóm bốn người với hàng phía sau.
Khi học sinh được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ mà không nhận được hướng dẫn từng bước rõ ràng, học sinh sẽ cảm thấy nhàm chán và không tham gia vào các hoạt động học tập. Vì vậy, giáo viên phải giải thích cho các thành viên trong nhóm lý do họ sẽ làm việc theo nhóm và họ sẽ phải làm gì. Đôi khi, giáo viên cũng nên mô hình hóa các nhiệm vụ và kiểm tra sự hiểu biết của học sinh trước khi đưa các em vào nhóm và yêu cầu các em làm việc cùng nhau. Khi học sinh đang làm việc trong nhóm của mình, một số tín hiệu hữu ích có thể được đưa ra để cho học sinh biết họ nên tạm dừng các cuộc thảo luận của mình bao gồm vỗ tay, gõ lên bảng hoặc bật và tắt đèn.
Nếu giáo viên có thể kiểm soát kỷ luật trong lớp, các hoạt động hợp tác liên quan đến làm việc theo cặp và làm việc nhóm sẽ rất thành công. Trong mỗi bài học, mục tiêu của hoạt động, các yêu cầu kỷ luật và các quy tắc hành vi khác được sử dụng phải được giải thích. Học sinh cần biết cách làm việc theo nhóm và vào cuối mỗi buổi học, các em suy ngẫm về quá trình của ngày hôm đó để cải thiện vào lần sau. Các em chịu trách nhiệm về kỷ luật của mình trong quá trình này. Ngoài ra, giáo viên cần di chuyển quanh lớp để xem học sinh tiến bộ như thế nào và những vấn đề nào đang xảy ra. Giáo viên có thể đưa ra lời khuyên, khuyến khích và giúp đỡ cá nhân thêm khi thích hợp hoặc cần thiết.
Ban đầu, giáo viên kiểm tra với các nhóm để đảm bảo rằng học sinh hiểu những gì họ phải làm và có tất cả các tài liệu cần thiết trước khi họ bắt đầu. Sau đó, trong khi học sinh làm việc với nhau, giáo viên theo dõi các nhóm bằng cách đi lại để đảm bảo họ tập trung vào nhiệm vụ và sử dụng tốt ngôn ngữ mục tiêu nếu đây là một hoạt động trong lớp. Ông ấy cũng sẵn sàng trả lời bất kỳ câu hỏi hoặc vấn đề nào có thể phát sinh. Giáo viên nên khuyến khích việc giảng dạy ngang hàng và nỗ lực tự giác của người học. Cần chú ý và hỗ trợ nhiều hơn cho học sinh có trình độ thấp. Giáo viên nên khuyến khích những học sinh nhút nhát, rụt rè cũng như trấn an những người nói chuyện cưỡng chế.
Càng làm việc trong các nhóm hợp tác, học sinh càng hiểu, ghi nhớ và cảm thấy tốt hơn về bản thân và bạn bè. Làm việc trong một môi trường hợp tác khuyến khích trách nhiệm của học sinh đối với việc học. Hơn nữa, bằng cách có sự hỗ trợ của bạn bè, động lực của học sinh được tăng lên. Học sinh có thể vượt qua sự nhút nhát và ức chế của mình một cách dễ dàng để nói chuyện khi họ ở trong các nhóm nhỏ. Trong một không gian an toàn và hỗ trợ, người học, đặc biệt là những người yếu hơn, cảm thấy thoải mái hơn khi thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình. Họ cũng có nhiều can đảm hơn để chấp nhận rủi ro mắc lỗi khi học và thực hành ngôn ngữ giữa những người bạn của mình.
Kết quả từ các bảng câu hỏi khảo sát cho thấy phần lớn giáo viên nhận thức rõ tầm quan trọng của kỹ năng nói như một phương tiện giao tiếp và trao đổi thông tin với thế giới bên ngoài. Đối với học sinh, cần thiết để các em cải thiện kỹ năng nói để có thể nói tiếng Anh tốt. Hơn nữa, cả giáo viên và học sinh đều nhận thức rõ những lợi ích to lớn của các hoạt động hợp tác đối với việc dạy và học kỹ năng nói.
Liên quan đến tình hình hiện tại của việc dạy và học tiếng Anh thông qua công việc theo cặp và nhóm trong lớp học nói của học sinh không chuyên tiếng Anh lớp 12, có thể kết luận rằng tần suất sử dụng công việc theo cặp và nhóm là rất thường xuyên. Tại trường tôi, quy mô lớp học không quá lớn; do đó, không mất nhiều thời gian để tổ chức công việc theo cặp/nhóm. Nhìn sâu hơn vào vấn đề này thông qua quan sát lớp học, nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng các hoạt động hợp tác có hiệu quả trong các lớp học thực tế tại BNSHS nhưng những hoạt động này chưa được khai thác hết.
Trong khi các hoạt động hợp tác được tổ chức, giáo viên nên thực hiện nhiều hành động. Ở đây, nhà nghiên cứu thấy rằng tư cách thành viên trong nhóm đã được xác định. Nhưng vai trò cho mỗi người không được chỉ định nên trách nhiệm trong một vai trò cụ thể không được giải thích. Bên cạnh đó, hành vi của nhóm đã được theo dõi. Phản hồi và hỗ trợ đã được đưa ra. Nhiệm vụ học tập hợp tác đã được đánh giá nhưng ít hướng dẫn rõ ràng về các kỹ năng xã hội đã được đưa ra cho học sinh. Đặc biệt, học sinh không tự đánh giá, đánh giá ngang hàng hoặc đánh giá nhóm.
Tóm lại, dạy kỹ năng nói trong bối cảnh ngoại ngữ không phải là một nhiệm vụ dễ dàng mà nó đặt ra những yêu cầu lớn đối với cả giáo viên và học sinh, những người học kỹ năng này để giao tiếp bằng ngôn ngữ mục tiêu. Năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã giới thiệu một chương trình trung học phổ thông mới. Điều này dẫn đến một sự thay đổi đáng kể trong việc dạy và học tiếng Anh: từ phương pháp dịch ngữ pháp ăn sâu vào gốc rễ sang phương pháp giao tiếp.
Nghiên cứu chủ yếu liên quan đến các vấn đề phát sinh từ việc áp dụng các hoạt động hợp tác trong việc dạy và học kỹ năng nói. Công trình nghiên cứu này đã cố gắng nghiên cứu việc khai thác các hoạt động hợp tác để phát triển kỹ năng nói cho học sinh không chuyên tiếng Anh lớp 12 tại BNSHS. Trong nghiên cứu, cả lý thuyết và thực hành đều được xem xét. Đối với cơ sở lý thuyết, nhà nghiên cứu đã xem xét các khái niệm liên quan về kỹ năng nói và các hoạt động hợp tác. Rất nhiều tài liệu tham khảo đã được thu thập, phân tích và trình bày kỹ lưỡng.
Mặc dù nghiên cứu đã hoàn thành các mục tiêu đặt ra khi bắt đầu, nhưng không thể tránh khỏi việc nó có một số hạn chế do giới hạn thời gian, thiếu nguồn lực và kinh nghiệm nghèo nàn của nhà nghiên cứu trong việc thực hiện một nghiên cứu. Như đã đề cập ở trên, các quan sát đã được thực hiện nhưng không thường xuyên. Thông tin thu được có thể bị hạn chế và không chính xác vì khi được quan sát, giáo viên và học sinh có thể dạy và học khác với cách họ thường làm vì sợ bị đánh giá tiêu cực. Hơn nữa, nghiên cứu này bị hạn chế theo nghĩa là khai thác các hoạt động hợp tác để dạy kỹ năng nói cho học sinh không chuyên tiếng Anh lớp 12 tại BNSHS. Vì vậy, ý kiến của họ có thể không phải là ý kiến của tất cả học sinh tại BNSHS nói riêng và tất cả học sinh học tiếng Anh trên toàn quốc nói chung.
Bạn đang xem trước tài liệu:
Luận văn thạc sĩ the exploitation of cooperative activities for teaching speaking skill to the 12th form non specialized english students at bac ninh specialized high school