I. Giải Quyết Vụ Việc Dân Sự Tổng Quan và Khái Niệm Quan Trọng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu của xã hội, tại kỳ họp thứ 5 ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS). LS ĐBSBLTTDS đã cơ bản khắc phục những được hạn chế, vướng mắc của BLTTDS nói chung và quy định về đình chỉ giải quyết VVDS nói riêng.
Trước đây, VADS bao gồm cả việc có tranh chấp dân sự và việc không tranh chấp, trong khi đó VAKT và VALĐ chỉ bao gồm các việc có tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, VVDS là một khái niệm rộng bao hàm các việc tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động gọi là VADS và các việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động không có tranh chấp gọi là việc dân sự (VDS). Đối tượng cần phải giải quyết trong VADS hoặc VDS chính là các quan hệ pháp luật nội dung được xác định trên cơ sở các yêu cầu của đương sự trong VADS hoặc VDS.
1.1. Định Nghĩa Vụ Việc Dân Sự VVDS Theo Luật Tố Tụng
Tại Điều 1 Dự thảo BLTTDS sửa đổi trình Quốc hội tại Phiên họp thứ 40, Quốc hội khóa XIII, tháng 8/2015 (DTBLTTDS) có quy định về VVDS như sau: “Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án” Như vậy, trên cơ sở kế thừa những quy định trước đó và tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu trong DTBLTTDS sửa đổi đã quy định khách i 11 tiết, cụ thể khái niệm VVDS, theo đó VVDS bao gồm VADS và VDS được giải quyết tại Tòa án.
1.2. Phân Biệt Vụ Án Dân Sự VADS và Việc Dân Sự VDS
Xét về thực tế, VADS và VDS tuy là những khái niệm khác nhau nhưng chúng đều thuộc nội hàm của khái niệm rộng hơn là VVDS. Vấn đề đặt ra là đình chỉ giải quyết VADS và đình chỉ giải quyết VVDS có cùng bản chất và căn cứ pháp lý hay không? Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lý luận đã phân tích ở trên, trước khi có BLTTDS không có sự phân biệt giữa VADS và VDS mà VADS bao gồm cả những việc tranh chấp và những việc không có tranh chấp. Từ khi có BLTTDS thì mới phân biệt VADS là việc có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương sự và VDS là việc không có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các đương sự.
1.3. Khái Niệm Đình Chỉ Giải Quyết Vụ Việc Dân Sự
Xoay quanh khái niệm đình chỉ giải quyết VADS cũng có nhiều quan điểm, giải thích khác nhau: Theo tác giả Tống Công Cường: “Đình chỉ giải quyết vụ án là chấm dứt tố tụng dân sự khi có những căn cứ nhất định mà không thông qua xét xử hay hòa giải” [1, tr. Xét về thực tế, VADS và VDS tuy là những khái niệm khác nhau nhưng trong quá trình giải quyết VADS hoặc VDS có thể phát hiện các tình tiết, sự kiện làm cho việc giải quyết VADS hoặc VDS không thể tiếp tục được mà căn nguyên là do Tòa án đã thụ lý vụ việc khi VADS hoặc VDS không thỏa mãn các điều kiện của việc thụ lý theo quy định của pháp luật. Từ những phân tích trên và kế thừa các kết quả nghiên cứu của những nhà nghiên cứu trước đây, có thể rút ra kết luận về đình chỉ giải quyết VVDS như sau: “Đình chỉ giải quyết VVDS là việc Tòa án quyết định ngừng hẳn việc giải quyết VADS hoặc VDS đã thụ lý khi có những căn cứ do pháp luật quy định và sau khi quyết định đình chỉ giải quyết VVDS có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc đó nữa, trừ những trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy định khác.
II. Đặc Điểm và Ý Nghĩa Của Việc Đình Chỉ Giải Quyết VVDS
Thứ nhất, đình chỉ giải quyết VVDS là một quyết định kết thúc việc giải quyết một VADS hoặc VDS. Tạm đình chỉ giải quyết VVDS được hiểu là việc Tòa án quyết định tạm ngừng việc giải quyết VADS hoặc VDS đã thụ lý trong một thời hạn nhất định khi có những căn cứ do pháp luật quy định; khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì Tòa án lại tiếp tục giải quyết VADS hoặc VDS đó. Khi VVDS bị đình chỉ giải quyết, các hoạt động tố tụng giải quyết VVDS sẽ ngừng hẳn, Tòa án sẽ xóa sổ thụ lý đối với VVDS, việc giải quyết VVDS không được khôi phục lại, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2.1. So Sánh Đình Chỉ và Tạm Đình Chỉ Giải Quyết VVDS
Như vậy, điểm khác biệt cơ bản nhất giữa tạm đình chỉ giải quyết VVDS và đình chỉ giải quyết VVDS đó là tạm đình chỉ là “tạm ngừng”, còn đình chỉ là “ngừng hẳn” mọi hoạt động tố tụng đối với VADS hay VDS đó. Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ là Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết VADS và VDS khi lý do tạm đình chỉ không còn đối với đình chỉ giải quyết VVDS là chấm dứt hoàn toàn và đương sự không có quyền khởi kiện hay yêu cầu Tòa án giải quyết VVDS đó, trừ một số trường hợp đặc biệt.
2.2. Vai trò của Thẩm Phán và Hội Đồng Xét Xử
Thứ ba, việc đình chỉ giải quyết VVDS trước phiên tòa do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc quyết định; việc quyết định có đình chỉ giải quyết VADS tại phiên tòa hay không do Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết VDS hoặc Thẩm phán phụ trách giải quyết VDS quyết định. Quá trình giải quyết VVDS trước phiên tòa chủ yếu do Thẩm phán tiến hành, do đó trước phiên tòa mà phát hiện có căn cứ đình chỉ giải quyết VVDS thì Thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VVDS.
2.3. Hậu Quả Pháp Lý Của Quyết Định Đình Chỉ
Khi ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS hoặc VDS, Tòa án không tiến hành thêm bất cứ hoạt động nào để giải quyết VVDS đó nữa. Tạm đình chỉ giải quyết VVDS không có hậu quả pháp lý làm ngừng hẳn các hoạt động tố tụng giải quyết VVDS mà chỉ làm tạm ngừng việc giải quyết VVDS, khi lý do của tạm đình chỉ giải quyết VVDS không còn nữa, Tòa án lại tiếp tục giải quyết VVDS.
III. Căn Cứ Pháp Lý và Thực Tiễn Đình Chỉ Giải Quyết Vụ Việc DS
Đây là cơ sở để phân biệt với căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VVDS, bởi các sự kiện được coi là căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VVDS phát sinh ngay trong quá trình Tòa án giải quyết VVDS. Qua nghiên cứu cho thấy sự kiện làm cho đối tượng của vụ việc cần phải giải quyết tại Tòa án không còn tồn tại có thể là các sự kiện sau đây: + Sự kiện đương sự chết mà quyền và nghĩa vụ không được thừa kế do tính chất của quan hệ pháp luật mà Tòa án cần giải quyết như vụ việc phát sinh từ quan hệ nhân thân, quan hệ cấp dưỡng; + Sự kiện người có nghĩa vụ chết nhưng không để lại di sản thừa kế; + Sự kiện đương sự là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, bị tuyên bố phá sản mà không có chủ thể thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng; + Sự kiện các chủ thể đã khởi kiện, yêu cầu rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu hoặc các đương sự tự hòa giải.
3.1. Các Sự Kiện Dẫn Đến Đình Chỉ Giải Quyết
Thực tiễn giải quyết các VVDS của Tòa án nước ta đã cho thấy có rất nhiều trường hợp Tòa án không thể tiếp tục giải quyết được mà phải ngừng hẳn việc giải quyết VVDS (hay đình ch...
3.2. Cơ Sở Lý Luận Về Quyền Tự Định Đoạt Của Đương Sự
Trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt nên sau khi đưa ra yêu cầu khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết VDS mà nguyên đơn, người yêu cầu rút tất cả các yêu cầu của họ thì đối tượng giải quyết VVDS không còn nên Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VVDS.
IV. Hướng Dẫn Thi Hành Luật Tố Tụng Dân Sự Quy Định Đình Chỉ
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, cụ thể: + Nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn không có quyền khởi kiện; + Bị đơn chết mà quyền, nghĩa vụ của bị đơn không được thừa kế; + Đương sự đã tự thỏa thuận và thỏa thuận của họ là hợp pháp; + ...
4.1. Căn Cứ Đình Chỉ Giải Quyết Vụ Án Theo Điều 217 BLTTDS
Việc xác định căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án phải được thực hiện cẩn trọng, chính xác, tránh việc áp dụng sai dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng các chứng cứ, tài liệu có liên quan để xác định có hay không căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án.
4.2. Thủ Tục Ra Quyết Định Đình Chỉ Giải Quyết Vụ Án
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm kiểm tra, xác minh các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án. Sau khi xác định có căn cứ đình chỉ, Thẩm phán báo cáo với Chánh án Tòa án để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án phải được gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
V. Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Đình Chỉ Vụ Việc Dân Sự
Việc áp dụng quy định về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong thực tiễn xét xử còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc xác định chính xác các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự đòi hỏi Thẩm phán phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú và tinh thần trách nhiệm cao.
5.1. Các Khó Khăn Thường Gặp Khi Áp Dụng Quy Định Đình Chỉ
Một số trường hợp khó xác định căn cứ đình chỉ như trường hợp đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế, trường hợp đương sự rút yêu cầu khởi kiện nhưng vẫn còn tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp.
5.2. Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán, tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật, có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan chức năng trong việc xác minh, thu thập chứng cứ.
VI. Kết Luận và Hướng Phát Triển Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự
Việc hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự là cần thiết để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án. Cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
6.1. Tầm Quan Trọng Của Việc Hoàn Thiện Pháp Luật
Việc hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự giúp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án.
6.2. Hướng Nghiên Cứu và Sửa Đổi Pháp Luật Trong Tương Lai
Cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan đến đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế.