Tổng quan nghiên cứu

Chất lượng nước sinh hoạt nông thôn là vấn đề cấp thiết ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, đặc biệt tại các vùng nông thôn như tỉnh Bến Tre. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm có khoảng 4 tỷ trường hợp mắc bệnh tiêu chảy liên quan đến nước không sạch, gây tử vong khoảng 2,2 triệu người, chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi. Tại Việt Nam, chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012-2015 đặt mục tiêu đến năm 2015 có 85% dân số nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 45% sử dụng nước đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT. Tỉnh Bến Tre, với tỷ lệ dân số nông thôn chiếm khoảng 83%, có hơn 45 trạm cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung, cung cấp nước cho khoảng 750.000 người. Tuy nhiên, chất lượng nước tại các trạm này chưa được đánh giá toàn diện trong giai đoạn 2015-2019.

Nghiên cứu nhằm mục tiêu mô tả thực trạng chất lượng nước sinh hoạt tại các trạm cấp nước tập trung trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong giai đoạn 2015-2019, đồng thời phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước, tập trung vào công tác quản lý và kiểm tra, giám sát chất lượng nước. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, nâng cao hiệu quả quản lý và vận hành các trạm cấp nước, góp phần cải thiện điều kiện sống của người dân nông thôn.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết từ Thông tư số 41/2018/TT-BYT của Bộ Y tế về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sử dụng cho mục đích sinh hoạt, cùng với tài liệu hướng dẫn kế hoạch an toàn nước áp dụng cho trạm cấp nước nông thôn tập trung tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Hai yếu tố chính được phân tích gồm:

  • Công tác quản lý chất lượng nước của cơ sở cấp nước: Bao gồm lưu trữ và quản lý hồ sơ theo dõi chất lượng nước, công tác lấy mẫu nội kiểm, chế độ báo cáo và công khai thông tin.
  • Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước: Bao gồm việc kiểm tra nội kiểm của cơ sở cấp nước, lấy mẫu và thử nghiệm các thông số chất lượng nước, cũng như công tác thông tin, báo cáo kết quả kiểm tra.

Các khái niệm chính trong nghiên cứu gồm: chỉ tiêu vi sinh (Coliform, E. coli), chỉ tiêu vật lý (màu sắc, mùi vị, độ đục, pH), chỉ tiêu hóa học (hàm lượng sắt, chỉ số Pecmanganat, độ cứng, hàm lượng clorua, amoni, clo dư). Tiêu chuẩn đánh giá dựa trên QCVN 02:2009/BYT.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả kết hợp phương pháp định lượng và định tính.

  • Nguồn dữ liệu định lượng: Hồi cứu 450 phiếu kết quả kiểm nghiệm mẫu nước của 45 trạm cấp nước sinh hoạt nông thôn trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong giai đoạn 2015-2019, do Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Bến Tre cung cấp. Mỗi trạm được lấy mẫu 2 lần/năm trong 5 năm.
  • Nguồn dữ liệu định tính: Phỏng vấn sâu 6 đối tượng gồm 4 người quản lý hoặc vận hành trạm cấp nước (chọn ngẫu nhiên 2 trạm có kết quả chất lượng nước cao nhất và 2 trạm thấp nhất), 1 đại diện Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Bến Tre, và 1 lãnh đạo khoa Sức khỏe môi trường – Y tế trường học thuộc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật.

Phân tích số liệu định lượng sử dụng phần mềm SPSS 22, nhập liệu bằng EpiData 4. Xử lý số liệu định tính bằng phương pháp mã hóa và tổng hợp nội dung phỏng vấn. Thời gian nghiên cứu từ tháng 12/2019 đến tháng 6/2020 tại tỉnh Bến Tre.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỷ lệ trạm cấp nước đạt chỉ tiêu vi sinh: Tỷ lệ đạt QCVN 02:2009/BYT về chỉ tiêu vi sinh dao động từ 75,6% đến 97,8% trong giai đoạn 2015-2019, có xu hướng giảm nhẹ trong những năm gần đây. Năm 2018 thấp nhất với 75,6%, năm 2019 đạt 82,2%. Tỷ lệ đạt chỉ tiêu E. coli tăng dần, năm 2019 đạt 100%.

  2. Tỷ lệ trạm đạt chỉ tiêu vật lý: Tỷ lệ đạt các chỉ tiêu vật lý (màu sắc, mùi vị, độ đục, pH) dao động từ 66,7% đến 93,3%. Chỉ tiêu mùi vị đạt 100% ổn định qua các năm. Chỉ tiêu màu sắc giảm từ 100% năm 2015 xuống còn 68,9% năm 2019. Độ đục dao động quanh 86,7%-93,3%, pH ổn định ở mức 97,8%-100%.

  3. Tỷ lệ trạm đạt chỉ tiêu hóa học: Tỷ lệ đạt các chỉ tiêu hóa học không ổn định, dao động từ 13,3% đến 48,9%. Năm 2015 đạt 33,3%, giảm xuống 6,7% năm 2018, tăng nhẹ lên 24,4% năm 2019. Các chỉ tiêu như hàm lượng sắt đạt trên 95%, trong khi chỉ số Pecmanganat và độ cứng có sự biến động lớn, thấp nhất chỉ đạt 35,6%-46,7% trong một số năm.

  4. So sánh theo nhóm quản lý: Các trạm thuộc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn có tỷ lệ đạt các chỉ tiêu vi sinh và vật lý cao hơn so với các trạm tư nhân. Tuy nhiên, tỷ lệ đạt chỉ tiêu hóa học của trạm tư nhân có phần cao hơn trong một số năm.

  5. Công tác quản lý và kiểm tra: 62,2% trạm thực hiện lưu trữ và quản lý hồ sơ đầy đủ theo quy định. 80% trạm thực hiện lấy mẫu kiểm nghiệm các thông số chất lượng nước, trong đó 100% trạm thuộc Trung tâm NS&VSMTNT thực hiện đúng tần suất. Công tác công khai kết quả kiểm nghiệm còn hạn chế, chỉ 8,9% trạm dán công khai kết quả. Công tác kiểm tra, giám sát ngoại kiểm được thực hiện 2 lần/năm với kinh phí hơn 200 triệu đồng năm 2019.

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy chất lượng nước sinh hoạt tại các trạm cấp nước nông thôn tỉnh Bến Tre còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở nhóm chỉ tiêu hóa học và một số chỉ tiêu vật lý như màu sắc và độ đục. Tỷ lệ đạt chỉ tiêu vi sinh tương đối cao nhưng có xu hướng giảm nhẹ, có thể do hiệu quả khử trùng clo dư không ổn định, ảnh hưởng bởi hàm lượng chất hữu cơ và độ đục cao trong nước. So với các nghiên cứu tại Cần Thơ và Tiền Giang, tỷ lệ đạt chỉ tiêu vi sinh tại Bến Tre thấp hơn một chút, phản ánh thách thức trong công tác xử lý nước và quản lý chất lượng.

Sự khác biệt về tỷ lệ đạt giữa các trạm thuộc Trung tâm NS&VSMTNT và trạm tư nhân cho thấy vai trò quan trọng của công tác quản lý chuyên nghiệp và nguồn lực đầu tư. Các trạm tư nhân gặp khó khăn về kinh phí và năng lực quản lý, dẫn đến việc lấy mẫu và báo cáo không đầy đủ. Công tác công khai thông tin còn hạn chế, ảnh hưởng đến sự minh bạch và giám sát của cộng đồng.

Biểu đồ và bảng biểu có thể minh họa rõ ràng tỷ lệ đạt các chỉ tiêu theo năm, theo nhóm chỉ tiêu và phân theo huyện, giúp nhận diện vùng có chất lượng nước tốt hoặc cần can thiệp. Các yếu tố môi trường như xâm nhập mặn, ô nhiễm vi sinh và chất hữu cơ cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng nước, đặc biệt trong mùa mưa và mùa khô.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý nước: Các cơ sở cấp nước, đặc biệt thuộc Trung tâm NS&VSMTNT, cần được đầu tư kinh phí để sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống xử lý nhằm cải thiện hiệu quả loại bỏ vi sinh và các chỉ tiêu hóa học, ưu tiên áp dụng công nghệ phù hợp với đặc điểm nguồn nước mặt tại Bến Tre. Thời gian thực hiện trong vòng 2 năm.

  2. Nâng cao năng lực quản lý và vận hành: Tổ chức đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và vận hành trạm cấp nước, đặc biệt các trạm tư nhân, nhằm đảm bảo thực hiện đúng quy trình lấy mẫu, kiểm nghiệm và báo cáo chất lượng nước. Chủ thể thực hiện là Sở Y tế phối hợp với Trung tâm NS&VSMTNT, trong vòng 1 năm.

  3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát: Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cần duy trì và nâng cao tần suất kiểm tra ngoại kiểm, xử lý nghiêm các cơ sở không tuân thủ quy định về quản lý chất lượng nước, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho các trạm cấp nước. Thực hiện liên tục hàng năm.

  4. Xây dựng cơ chế công khai minh bạch: Khuyến khích các trạm cấp nước công khai kết quả kiểm nghiệm tại trạm và trên các phương tiện truyền thông địa phương để người dân giám sát, nâng cao ý thức sử dụng nước sạch. Thời gian triển khai trong 6 tháng.

  5. Ứng phó với biến đổi khí hậu: Các cơ quan chức năng cần xây dựng và thực hiện các biện pháp ứng phó với xâm nhập mặn và hạn hán, bảo vệ nguồn nước mặt và ngầm, đảm bảo nguồn nước ổn định cho sinh hoạt. Chủ thể là UBND tỉnh phối hợp các ngành liên quan, kế hoạch dài hạn đến năm 2030.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cán bộ quản lý ngành y tế và môi trường: Nghiên cứu cung cấp dữ liệu thực tiễn và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước, hỗ trợ xây dựng chính sách và kế hoạch quản lý nước sạch nông thôn.

  2. Nhà quản lý và vận hành trạm cấp nước: Giúp hiểu rõ các tiêu chuẩn chất lượng nước, quy trình kiểm tra, giám sát và các yếu tố kỹ thuật, quản lý ảnh hưởng đến chất lượng nước, từ đó nâng cao hiệu quả vận hành.

  3. Các tổ chức phi chính phủ và nhà tài trợ: Cung cấp thông tin về thực trạng và nhu cầu đầu tư, hỗ trợ thiết kế các dự án cải thiện cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

  4. Học viên, nghiên cứu sinh ngành y tế công cộng, môi trường: Là tài liệu tham khảo khoa học về phương pháp nghiên cứu, phân tích dữ liệu và đánh giá chất lượng nước sinh hoạt nông thôn trong điều kiện thực tế.

Câu hỏi thường gặp

  1. Chất lượng nước sinh hoạt nông thôn tại Bến Tre hiện nay ra sao?
    Chất lượng nước tại các trạm cấp nước nông thôn có tỷ lệ đạt chỉ tiêu vi sinh từ 75,6% đến 97,8%, chỉ tiêu vật lý từ 66,7% đến 93,3%, và chỉ tiêu hóa học thấp hơn, dao động 13,3%-48,9%. Nước sạch chưa đồng đều và còn nhiều trạm chưa đạt chuẩn.

  2. Yếu tố nào ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng nước?
    Công tác quản lý chất lượng nước và công tác kiểm tra, giám sát là hai yếu tố chính. Ngoài ra, công nghệ xử lý nước cũ kỹ, nguồn nước mặt bị ô nhiễm và biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đáng kể.

  3. Các trạm cấp nước tư nhân có điểm gì khác biệt?
    Trạm tư nhân thường gặp khó khăn về kinh phí và năng lực quản lý, dẫn đến việc lấy mẫu và báo cáo không đầy đủ, tỷ lệ đạt chỉ tiêu hóa học và công tác quản lý thấp hơn so với trạm thuộc Trung tâm NS&VSMTNT.

  4. Làm thế nào để nâng cao chất lượng nước tại các trạm cấp nước?
    Cần đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý, đào tạo nhân lực quản lý, tăng cường kiểm tra giám sát, công khai kết quả kiểm nghiệm và xây dựng cơ chế ứng phó biến đổi khí hậu.

  5. Tại sao công khai kết quả kiểm nghiệm nước lại quan trọng?
    Công khai giúp người dân giám sát chất lượng nước, tạo áp lực cho cơ sở cấp nước nâng cao chất lượng, đồng thời tăng cường minh bạch và niềm tin cộng đồng vào nguồn nước sử dụng.

Kết luận

  • Tỷ lệ trạm cấp nước sinh hoạt nông thôn tỉnh Bến Tre đạt các chỉ tiêu vi sinh và vật lý tương đối cao nhưng có xu hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2015-2019.
  • Chỉ tiêu hóa học có tỷ lệ đạt thấp nhất, dao động dưới 50%, phản ánh hạn chế trong công nghệ xử lý và quản lý.
  • Công tác quản lý chất lượng nước của các trạm thuộc Trung tâm NS&VSMTNT thực hiện tương đối đầy đủ, trong khi các trạm tư nhân còn nhiều hạn chế.
  • Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước được thực hiện theo quy định, tuy nhiên cần tăng cường về tần suất và hiệu quả xử lý các cơ sở không đạt chuẩn.
  • Đề xuất các giải pháp nâng cấp công nghệ, đào tạo nhân lực, tăng cường kiểm tra và công khai minh bạch nhằm cải thiện chất lượng nước sinh hoạt nông thôn tại Bến Tre trong thời gian tới.

Hành động tiếp theo: Các cơ quan chức năng và đơn vị cấp nước cần phối hợp triển khai các khuyến nghị nhằm đảm bảo nguồn nước sạch, an toàn cho người dân, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững vùng nông thôn.