Tổng quan nghiên cứu

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là nhóm bệnh phổ biến và nguy hiểm, đặc biệt ở trẻ em dưới 5 tuổi, gây tỷ lệ tử vong cao tại các nước đang phát triển. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), mỗi năm có khoảng 4 triệu trẻ em tử vong do viêm phổi trong tổng số 15 triệu trẻ dưới 5 tuổi tử vong toàn cầu, trong đó 2/3 là trẻ dưới 1 tuổi. Ở Việt Nam, NKHHCT cũng là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong ở trẻ em, với trung bình mỗi trẻ mắc từ 3 đến 4 lần mỗi năm. Tại Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị NKHHCT chiếm khoảng 63% trong số trẻ nhập viện khoa Nhi, phản ánh gánh nặng bệnh tật lớn tại địa phương.

Mục tiêu nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng chẩn đoán, phân loại và xử trí NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi theo phác đồ của TCYTTG tại Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu, đồng thời phân tích tình hình sử dụng thuốc, đặc biệt là kháng sinh, và các yếu tố ảnh hưởng đến việc xử trí bệnh. Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2001, tập trung tại Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu, một huyện nông nghiệp với dân số khoảng 180.000 người.

Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả áp dụng phác đồ điều trị NKHHCT của TCYTTG tại tuyến y tế cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong và hạn chế tình trạng lạm dụng kháng sinh, từ đó hỗ trợ xây dựng các chính sách y tế phù hợp tại địa phương.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên phác đồ xử trí NKHHCT của TCYTTG, trong đó phân loại bệnh thành bốn thể chính: viêm phổi rất nặng, viêm phổi nặng, viêm phổi và không viêm phổi (NKHHCT khác). Các dấu hiệu lâm sàng quan trọng được sử dụng để chẩn đoán và phân loại gồm: ho, sốt trên 38°C, thở nhanh theo ngưỡng tuổi, ran ẩm, rút lõm lồng ngực, tím tái, bỏ bú hoặc bú kém, co giật, và các dấu hiệu nguy kịch như không uống được, ngủ li bì, thở rít khi nằm yên.

Kháng sinh được phân loại thành nhóm bước một (dùng cho viêm phổi không nặng, điều trị ngoại trú) và bước hai (dùng cho viêm phổi nặng, điều trị nội trú). Các loại kháng sinh phổ biến gồm Benzyl Penicillin, Gentamycin, Amoxycillin, Ampicillin, Co-trimoxazol, Chloramphenicol và Cephazolin. Việc lựa chọn kháng sinh dựa trên nguyên nhân vi khuẩn phổ biến như Haemophilus influenzae và Streptococcus pneumoniae, cũng như tính nhạy cảm của vi khuẩn với thuốc.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế kết hợp hồi cứu và điều tra ngang, kết hợp định lượng và định tính.

  • Nguồn dữ liệu: Bệnh án của 103 trẻ dưới 5 tuổi bị NKHHCT điều trị tại khoa Nhi Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu trong tháng 5 năm 2001; quan sát trực tiếp xử trí tại phòng khám Nhi với ít nhất 30 trẻ; phỏng vấn sâu không cấu trúc với bác sĩ, điều dưỡng và người nhà bệnh nhân.

  • Phương pháp chọn mẫu: Mẫu thuận tiện, lấy toàn bộ bệnh án đủ tiêu chuẩn trong tháng 5/2001, bổ sung tháng 6 nếu thiếu. Cỡ mẫu tối thiểu tính toán theo công thức thống kê là 96 bệnh án, thực tế thu thập 103 bệnh án. Quan sát xử trí thuốc theo y lệnh trong 149 ngày thực hiện thuốc.

  • Phương pháp phân tích: Sử dụng phần mềm Epi-info 6 để xử lý số liệu định lượng, phân tích thống kê mô tả và kiểm định mối liên quan giữa các biến số. Dữ liệu định tính được tổng hợp, phân tích nội dung và trích dẫn ý kiến phỏng vấn.

  • Thời gian và địa điểm: Nghiên cứu tiến hành từ 21/2 đến 31/8/2001 tại Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

  • Khía cạnh đạo đức: Nghiên cứu được sự đồng thuận của lãnh đạo Trung tâm Y tế, bảo đảm bí mật thông tin, quyền từ chối tham gia của đối tượng và thông báo kết quả khi có yêu cầu.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỷ lệ mắc và phân loại bệnh: Trong 152 trẻ dưới 5 tuổi nhập viện khoa Nhi, có 109 trẻ (71,7%) bị NKHHCT. Trong số 103 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ viêm phổi các thể chiếm 50,5%, trong đó viêm phổi nặng 19,4%, viêm phổi rất nặng 1%. Tỷ lệ bệnh nhân có bệnh phụ là 25,2%, chủ yếu là bệnh ỉa chảy. Tỷ lệ bệnh nhân đã điều trị trước khi nhập viện là 35,9%, cao nhất ở nhóm viêm phổi rất nặng (100%).

  2. Chẩn đoán và phân loại theo phác đồ: Có 59,2% bệnh nhân được chẩn đoán và phân loại theo phác đồ TCYTTG. Dấu hiệu thở nhanh và ran ẩm được sử dụng phổ biến để chẩn đoán viêm phổi, với 73,7% bệnh nhân có thở nhanh được chẩn đoán viêm phổi, tuy nhiên vẫn còn 21,7% bệnh nhân không thở nhanh nhưng được chẩn đoán viêm phổi. Tỷ lệ bệnh nhân có dấu hiệu nguy kịch được phân loại đúng còn hạn chế, chỉ 50% trẻ dưới 2 tháng tuổi có dấu hiệu nguy kịch được phân loại viêm phổi nặng.

  3. Sử dụng kháng sinh: 100% bệnh nhân được sử dụng kháng sinh, chủ yếu là Benzyl Penicillin (92,2%) và Gentamycin (85,4%), với 83,5% bệnh nhân được phối hợp hai loại này. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị kháng sinh đủ 5 ngày trở lên là 73,8%, cao hơn ở nhóm viêm phổi nặng (95%). Tuy nhiên, chỉ có 6,8% bệnh nhân được điều trị kháng sinh đúng theo phác đồ TCYTTG, thấp nhất ở nhóm viêm phổi rất nặng (0%).

  4. Sử dụng thuốc hỗ trợ khác: Paracetamol được dùng cho 64,1% bệnh nhân, trong đó 86,2% bệnh nhân sốt trên 38,5°C được dùng thuốc này. Salbutamol được sử dụng cho 29,1% bệnh nhân, chủ yếu ở nhóm có thở khò khè (61,5%). Không có bệnh nhân nào được sử dụng oxy. Prednisolon được dùng cho 34% bệnh nhân.

  5. Thực hiện thuốc theo y lệnh: Qua 149 ngày quan sát, điều dưỡng viên thực hiện đúng đường dùng thuốc uống và tiêm bắp 100%, tuy nhiên không có tiêm tĩnh mạch được thực hiện.

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy NKHHCT vẫn là gánh nặng lớn tại Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu với tỷ lệ mắc cao và đa dạng thể bệnh. Việc chẩn đoán và phân loại bệnh theo phác đồ TCYTTG còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong nhận diện dấu hiệu nguy kịch, dẫn đến nguy cơ xử trí chưa phù hợp. Tỷ lệ sử dụng kháng sinh cao nhưng việc tuân thủ phác đồ điều trị rất thấp, chỉ 6,8%, phản ánh tình trạng lạm dụng hoặc sử dụng không đúng thuốc, có thể gây kháng thuốc và tăng chi phí điều trị.

Việc sử dụng Paracetamol và Salbutamol tương đối phù hợp với triệu chứng sốt và thở khò khè, tuy nhiên vẫn còn tình trạng dùng không đúng chỉ định. Việc không sử dụng oxy trong điều trị viêm phổi nặng là điểm cần lưu ý, có thể do hạn chế về trang thiết bị hoặc nhận thức của nhân viên y tế.

So sánh với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, tình trạng chẩn đoán và điều trị chưa đúng phác đồ là vấn đề phổ biến, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và tỷ lệ tử vong. Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ phân bố thể bệnh, tỷ lệ sử dụng kháng sinh và biểu đồ so sánh tỷ lệ chẩn đoán đúng theo phác đồ giữa các nhóm tuổi.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường đào tạo, tập huấn cho cán bộ y tế: Nâng cao nhận thức và kỹ năng chẩn đoán, phân loại NKHHCT theo phác đồ TCYTTG, đặc biệt về các dấu hiệu nguy kịch và phân loại chính xác thể bệnh. Thời gian thực hiện: 6 tháng; chủ thể: Trung tâm Y tế huyện phối hợp Sở Y tế.

  2. Xây dựng quy trình giám sát, đánh giá việc tuân thủ phác đồ điều trị: Thiết lập hệ thống kiểm tra định kỳ việc kê đơn, sử dụng kháng sinh và thuốc hỗ trợ, nhằm giảm lạm dụng thuốc và tăng hiệu quả điều trị. Thời gian: 12 tháng; chủ thể: Ban giám đốc Trung tâm Y tế.

  3. Cải thiện trang thiết bị y tế, đặc biệt cung cấp oxy: Đảm bảo có đủ oxy và thiết bị hỗ trợ thở cho bệnh nhân viêm phổi nặng, nâng cao chất lượng điều trị. Thời gian: 12 tháng; chủ thể: Sở Y tế, Trung tâm Y tế huyện.

  4. Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng: Nâng cao nhận thức của người dân về việc sử dụng thuốc hợp lý, không tự ý dùng kháng sinh và đưa trẻ đến khám sớm khi có dấu hiệu NKHHCT. Thời gian: liên tục; chủ thể: Trung tâm Y tế, các trạm y tế xã.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cán bộ y tế tuyến cơ sở: Giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng chẩn đoán, phân loại và xử trí NKHHCT theo phác đồ TCYTTG, cải thiện chất lượng chăm sóc trẻ em.

  2. Nhà quản lý y tế: Cung cấp dữ liệu thực tiễn để xây dựng chính sách, quy trình giám sát và đào tạo nhân viên y tế, đồng thời phân bổ nguồn lực hợp lý.

  3. Nhà nghiên cứu và học viên y tế công cộng: Là tài liệu tham khảo về tình hình xử trí NKHHCT tại tuyến y tế cơ sở, phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính.

  4. Cộng đồng và người dân: Giúp hiểu rõ về bệnh NKHHCT, tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị và phòng ngừa bệnh cho trẻ dưới 5 tuổi.

Câu hỏi thường gặp

  1. NKHHCT là gì và tại sao trẻ dưới 5 tuổi dễ mắc?
    NKHHCT là nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính do vi khuẩn hoặc vi rút gây viêm từ mũi, họng đến phổi. Trẻ dưới 5 tuổi có hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, dễ bị nhiễm và biến chứng nặng.

  2. Phác đồ TCYTTG phân loại NKHHCT như thế nào?
    Phác đồ phân loại thành viêm phổi rất nặng, viêm phổi nặng, viêm phổi và không viêm phổi dựa trên các dấu hiệu lâm sàng như thở nhanh, ran ẩm, rút lõm lồng ngực và dấu hiệu nguy kịch.

  3. Tại sao việc sử dụng kháng sinh theo phác đồ lại quan trọng?
    Sử dụng đúng kháng sinh giúp điều trị hiệu quả, giảm nguy cơ kháng thuốc, hạn chế tác dụng phụ và tiết kiệm chi phí điều trị.

  4. Nguyên nhân nào dẫn đến việc chẩn đoán và điều trị chưa đúng phác đồ?
    Nguyên nhân gồm thiếu đào tạo, nhận thức chưa đầy đủ của cán bộ y tế, áp lực bệnh nhân đông, thiếu trang thiết bị và thói quen kê đơn không hợp lý.

  5. Làm thế nào để cải thiện việc xử trí NKHHCT tại tuyến y tế cơ sở?
    Cần tăng cường đào tạo, giám sát tuân thủ phác đồ, cải thiện trang thiết bị, đồng thời tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về bệnh và điều trị.

Kết luận

  • NKHHCT chiếm tỷ lệ cao (71,7%) trong số trẻ dưới 5 tuổi nhập viện khoa Nhi tại Trung tâm Y tế huyện Khoái Châu, với 50,5% là các thể viêm phổi.
  • Việc chẩn đoán và phân loại bệnh theo phác đồ TCYTTG còn hạn chế, chỉ 59,2% bệnh nhân được phân loại đúng, đặc biệt trong nhận diện dấu hiệu nguy kịch.
  • Tất cả bệnh nhân được sử dụng kháng sinh, nhưng chỉ 6,8% tuân thủ đúng phác đồ, cho thấy tình trạng lạm dụng và sử dụng không hợp lý.
  • Việc sử dụng thuốc hỗ trợ như Paracetamol và Salbutamol tương đối phù hợp với triệu chứng, nhưng chưa tối ưu; không có bệnh nhân được dùng oxy.
  • Cần triển khai ngay các giải pháp đào tạo, giám sát, cải thiện trang thiết bị và tuyên truyền cộng đồng để nâng cao hiệu quả xử trí NKHHCT.

Next steps: Triển khai chương trình đào tạo cán bộ y tế trong 6 tháng tới, đồng thời xây dựng hệ thống giám sát tuân thủ phác đồ và cải thiện trang thiết bị y tế trong vòng 12 tháng.

Call to action: Các cơ quan y tế địa phương và trung ương cần phối hợp chặt chẽ để thực hiện các khuyến nghị nhằm giảm thiểu gánh nặng NKHHCT ở trẻ em, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.