I. Tổng Quan Trách Nhiệm Bồi Thường Nhà Nước Trong THADS 55 ký tự
Chế định Trách nhiệm bồi thường nhà nước (TNBTNN) xuất hiện khá sớm ở nhiều quốc gia, ở Việt Nam, quy định về TNBTNN được ghi nhận từ sau năm 1945. Vấn đề này thực sự được biết đến rộng rãi qua Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 03/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại (BTTH) do công chức, viên chức Nhà nước gây ra, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH về BTTH cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Để hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường, bồi hoàn trong chiến lược cải cách tư pháp, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật TNBTNN tại kỳ họp thứ 5 năm 2009. Lần đầu tiên, chế định TNBTNN được quy định đầy đủ, toàn diện ở tầm văn bản Luật. Luật TNBTNN có vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội; là một yêu cầu tất yếu của xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Qua gần 6 năm thực hiện, Luật TNBTNN năm 2009 đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi bị thiệt hại do hành vi thi hành công vụ trái pháp luật gây ra, trong đó có hoạt động thi hành án dân sự (THADS).
1.1. Khái Niệm và Bản Chất Trách Nhiệm Bồi Thường Nhà Nước
Bồi thường được hiểu là việc đền bù những tổn thất hay thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản. Dưới góc độ pháp lý thì BTTH là dạng trách nhiệm pháp lý phát sinh do có hành vi vi phạm khách thể được pháp luật bảo vệ, buộc bên thực hiện hành vi phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp về vật chất, tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trong một xã hội dân chủ, pháp quyền, Nhà nước có trách nhiệm bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Mọi hành vi xâm phạm tới quyền và lợi ích này đều phải bị xử lý nghiêm minh và bồi thường tương xứng với thiệt hại gây ra. Do đó, khi thực hiện hành vi công quyền gây ra thiệt hại cho các chủ thể khác trong xã hội, Nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường.
1.2. Đặc Điểm Nổi Bật của Trách Nhiệm Bồi Thường Nhà Nước
TNBTNN gắn liền với việc kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước và ngăn chặn các hành vi vi phạm của các cơ quan nhà nước khi thi hành công vụ. Trong Nhà nước pháp quyền, Nhà nước cũng phải tuân theo pháp luật, chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép. Bên cạnh đó, quyền được BTTH khi bị xâm phạm là quyền cơ bản của con người, mọi cá nhân có quyền yêu cầu các chủ thể khác bao gồm cả Nhà nước bồi thường nếu quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Nhà nước cũng cần có nghĩa vụ bình đẳng như các chủ thể khác khi thực hiện việc bồi thường. Pháp luật về TNBTNN tại Việt Nam cũng tiếp cận theo góc độ này để đưa ra khái niệm về TNBTNN.
II. Vì Sao Cần Nghiên Cứu Pháp Luật Về Bồi Thường THADS 60 ký tự
Luật TNBTNN năm 2009 đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến quyền yêu cầu BTTH của người bị thiệt hại và quá trình giải quyết bồi thường. Các hạn chế của Luật TNBTNN năm 2009 về BTTH trong hoạt động THADS như: chưa có quy định về đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015…; các quy định trong Luật nhằm thực hiện quyền yêu cầu BTTH và giải quyết BTTH trong hoạt động THADS có những hạn chế nội tại làm cho việc thi hành luật hạn chế thể hiện qua số vụ việc được giải quyết BTTH so với yêu cầu BTTH trong hoạt động THADS. Trên cơ sở đó, ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật TNBTNN, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018. So với Luật TNBTNN năm 2009, Luật TNBTNN năm 2017 có nhiều điểm mới liên quan đến công tác BTNN trong hoạt động THADS.
2.1. Hạn Chế của Luật TNBTNN 2009 trong Thi Hành Án Dân Sự
Luật TNBTNN 2009 thiếu các quy định đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp 2013, BLDS 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Việc thi hành luật gặp nhiều khó khăn, số vụ việc được giải quyết BTTH còn hạn chế so với số lượng yêu cầu BTTH trong hoạt động THADS.
2.2. Luật TNBTNN 2017 Bước Tiến Mới Trong Bồi Thường THADS
Luật TNBTNN 2017 là một bước hoàn thiện về mặt thể chế, điều chỉnh TNBTNN, tiếp tục cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, đồng thời, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với việc củng cố, hoàn thiện hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, Luật TNBTNN năm 2017 vẫn còn những hạn chế, bất cập chưa được khắc phục.
III. Các Nguyên Tắc Bồi Thường Của Nhà Nước Trong THADS 59 ký tự
Luật TNBTNN năm 2017 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập chưa được khắc phục về các quy định trong giải quyết yêu cầu BTTH nói chung, trong hoạt động THADS nói riêng. Điều này sẽ dẫn đến khó khăn cho các bên trong việc xác định TNBTCNN trong hoạt động THADS cũng như cho chính cơ quan nhà nước đảm bảo quyền của người dân. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận và pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS vẫn luôn đặt ra để từ đó có kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, vào năm 2023, Cục BTNN - Bộ Tư pháp hướng tới sơ kết 05 năm thực hiện Luật TNBTNN năm 2017, cũng là sơ kết 05 năm triển khai Luật TNBTNN năm 2017 trong hoạt động THADS.
3.1. Giải Quyết Khó Khăn Trong Xác Định Trách Nhiệm Bồi Thường
Việc làm rõ vấn đề lý luận và pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS vẫn luôn là một yêu cầu cấp thiết. Cục BTNN - Bộ Tư pháp đang hướng tới sơ kết 05 năm thực hiện Luật TNBTNN năm 2017, đánh giá những thành tựu và tồn tại cần khắc phục.
3.2. Bảo Vệ Quyền Con Người và Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước
Luật TNBTNN năm 2017 cần có những đổi mới, bảo vệ quyền con người, quyền của công dân và đặc biệt là việc kiểm soát quyền lực của Nhà nước, nhất là trong hoạt động THADS. Nghiên cứu về TNBTCNN trong hoạt động THADS theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc.
IV. Nghiên Cứu Chuyên Sâu Pháp Luật Bồi Thường THADS Hiện Nay 58 ký tự
Việc nghiên cứu về TNBTCNN trong hoạt động THADS không phải là nội dung quá mới, nhưng được quan tâm nhiều từ khi ban hành Luật TNBTNN năm 2009. Các công trình nghiên cứu về TNBTCNN trong hoạt động tư pháp thường tập trung vào các nội dung mang tính khái quát chung, bao gồm: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về TNBTCNN. Về sách tham khảo, tác giả Đỗ Văn Đại và Nguyễn Trương Tín viết sách “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” (NXB Hồng Đức, 2019) đã khái quát vấn đề lý luận và pháp luật Việt Nam về TNBTCNN. Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành chủ yếu nghiên cứu về TNBTCNN.
4.1. Các Công Trình Nghiên Cứu Về TNBTCNN trước 2017
Các công trình nghiên cứu trước năm 2017 thường tập trung vào các vấn đề lý luận chung về TNBTCNN, các công trình nghiên cứu về chế định TNBTCNN trong lĩnh vực chuyên biệt, trong đó có hoạt động THADS.
4.2. Tính Mới Của Luận Văn Trong Bối Cảnh Nghiên Cứu Hiện Tại
Chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt riêng về TNBTCNN trong hoạt động THADS theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Luận văn tập trung nghiên cứu TNBTCNN trong hoạt động THADS dưới góc độ lý luận và pháp luật thực định từ khi ban hành Luật TNBTNN từ năm 2017 cho đến nay.
V. Phân Tích Thực Tiễn Hoàn Thiện Pháp Luật Bồi Thường THADS 60 ký tự
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: Phương pháp phân tích để làm rõ nội dung lý luận và thực tiễn của pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành Luật TNBTCNN năm 2017. Phương pháp tổng hợp để khái quát lý luận và tình hình thực tiễn thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 trong hoạt động THADS, đồng thời khái quát thông tin pháp luật một số quốc gia trên thế giới về TNBTCNN trong hoạt động THADS.
5.1. Phương Pháp Luận Nghiên Cứu TNBTCNN trong THADS
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cùng các phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh để nghiên cứu TNBTCNN trong THADS.
5.2. So Sánh Pháp Luật Việt Nam và Quốc Tế Về Bồi Thường
Phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam trong các quy định của Luật TNBTCNN qua các giai đoạn và pháp luật nước ngoài, từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang lại những điểm mới sau: Thứ nhất, luận văn tổng hợp và phân tích lý luận về TNBTCNN trong hoạt động THADS dưới góc nhìn quy định của Luật TNBTCNN năm 2017.
VI. Đề Xuất Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Bồi Thường THADS 55 ký tự
Thứ hai, đánh giá thực trạng quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 về TNBTCNN trong hoạt động THADS, từ đó chỉ ra những hạn chế của quy định pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS. Thứ ba, đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật và kiến nghị sửa đổi một số nội dung cụ thể để hoàn thiện quy định pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục kết cấu của luận văn gồm 03 chương:
6.1. Đánh Giá Thực Trạng và Hạn Chế của Luật TNBTCNN 2017
Luận văn đánh giá thực trạng quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 về TNBTCNN trong hoạt động THADS, từ đó chỉ ra những hạn chế của quy định pháp luật.
6.2. Kiến Nghị Sửa Đổi và Hoàn Thiện Quy Định Pháp Luật
Luận văn đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật và kiến nghị sửa đổi một số nội dung cụ thể để hoàn thiện quy định pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS.