Tổng quan nghiên cứu
Bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một trong những bệnh truyền nhiễm do muỗi Aedes truyền, có khả năng gây thành dịch lớn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Theo ước tính, khoảng 40% dân số thế giới có nguy cơ mắc SXHD, với hơn 390 triệu ca nhiễm virus Dengue mỗi năm trên toàn cầu. Tại Việt Nam, SXHD lưu hành rộng rãi, đặc biệt tập trung ở các tỉnh miền Nam, miền Trung và Tây Nguyên, với chu kỳ bùng phát dịch từ 3 đến 5 năm. Tỉnh Đắk Nông, đặc biệt là huyện Đăk R’Lấp, là vùng có tỷ lệ mắc SXHD cao, trong đó xã Nhân Cơ có nhiều khu nhà trọ với điều kiện sinh hoạt và vệ sinh môi trường chưa đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho véc tơ truyền bệnh phát triển.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng véc tơ truyền bệnh SXHD và kiến thức, thực hành phòng bệnh của người dân thuê trọ tại các khu nhà trọ ở xã Nhân Cơ, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông trong năm 2017. Mục tiêu cụ thể là mô tả các chỉ số véc tơ truyền bệnh và đánh giá mức độ hiểu biết cũng như thực hành phòng bệnh của người thuê trọ. Nghiên cứu có phạm vi từ tháng 02 đến tháng 07 năm 2017, tập trung tại 47 khu nhà trọ với 236 người tham gia phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chiến lược phòng chống SXHD phù hợp, góp phần giảm thiểu nguy cơ bùng phát dịch tại khu vực có mật độ dân cư cao và điều kiện vệ sinh còn hạn chế.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Khung lý thuyết nghiên cứu dựa trên Quyết định 3711 của Bộ Y tế năm 2014 và các nghiên cứu trước đó về dịch tễ học SXHD, kiến thức và thực hành phòng bệnh. Hai lý thuyết chính được áp dụng gồm:
- Lý thuyết về véc tơ truyền bệnh: Tập trung vào đặc điểm sinh học, sinh thái của muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus, vòng đời phát triển, nơi sinh sản và các chỉ số véc tơ như Chỉ số Breteau (BI), Chỉ số mật độ muỗi (CSMĐ), chỉ số nhà có bọ gậy (HI).
- Lý thuyết về kiến thức, thái độ và thực hành (KAP): Đánh giá mức độ hiểu biết về bệnh SXHD, các biện pháp phòng chống và thực hành của người dân, ảnh hưởng của các yếu tố nhân khẩu xã hội như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn đến hành vi phòng bệnh.
Các khái niệm chính bao gồm: véc tơ truyền bệnh, dụng cụ chứa nước (DCCN), chỉ số véc tơ (BI, HI, CSMĐ), kiến thức về triệu chứng và con đường lây truyền SXHD, thực hành phòng bệnh như ngủ màn, diệt muỗi, vệ sinh môi trường và loại bỏ bọ gậy.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích, tiến hành tại 47 khu nhà trọ ở xã Nhân Cơ, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông từ tháng 02 đến tháng 07 năm 2017. Cỡ mẫu gồm 236 người thuê trọ, được chọn theo tiêu chí: tuổi từ 18 đến 60, thuê trọ ít nhất 30 ngày, có mặt tại thời điểm điều tra và đồng ý tham gia.
Nguồn dữ liệu bao gồm:
- Dữ liệu sơ cấp: Thu thập qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi chuẩn về kiến thức và thực hành phòng bệnh SXHD.
- Quan sát thực tế: Đánh giá thực hành phòng bệnh và điều tra véc tơ truyền bệnh bằng phương pháp soi bắt muỗi trưởng thành, thu thập và định loại bọ gậy/lăng quăng trong các dụng cụ chứa nước.
- Dữ liệu véc tơ: Ghi nhận các chỉ số véc tơ như BI, HI, mật độ muỗi, số lượng dụng cụ chứa nước có bọ gậy.
Phân tích số liệu sử dụng phần mềm SPSS 16.0, áp dụng kiểm định Chi-square để so sánh tỷ lệ và tính Odds Ratio (OR) để đo lường mức độ liên quan giữa các biến. Các biện pháp hạn chế sai số gồm tập huấn điều tra viên, thiết kế công cụ chuẩn hóa, điều tra thử và giải thích rõ mục đích nghiên cứu cho đối tượng tham gia.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Thực trạng véc tơ truyền bệnh SXHD:
- Chỉ số Breteau (BI) đo được là 38,3, vượt ngưỡng khuyến cáo của Bộ Y tế (BI ≥ 30), cho thấy nguy cơ cao bùng phát dịch.
- Chỉ số mật độ muỗi trưởng thành là 0,17 con/nhà, dưới ngưỡng nguy cơ (≥ 0,5 con/nhà).
- Tỷ lệ dụng cụ chứa nước có bọ gậy cao nhất là bể xây (28,57%) và phế thải (8,94%).
- Tổng số muỗi cái Aedes aegypti bắt được là 8 con, không phát hiện Aedes albopictus.
Kiến thức về bệnh SXHD của người thuê trọ:
- 86,9% người tham gia đã nghe nói về SXHD.
- 88,3% biết triệu chứng chính là sốt cao liên tục, nổi ban, xuất huyết.
- 92,7% nhận thức bệnh có thể lây truyền, trong đó 96,9% biết muỗi là con đường lây truyền chính.
- Tuy nhiên, chỉ 54,4% biết tên muỗi truyền bệnh là muỗi vằn (Aedes), còn 40,2% nhầm là muỗi đòn sóc (Anopheles).
- 59,2% hiểu đúng vòng đời phát triển của muỗi.
Thực hành phòng bệnh SXHD:
- 90,2% thực hiện ít nhất một biện pháp phòng bệnh trong tháng qua.
- Các biện pháp phổ biến gồm vệ sinh dụng cụ chứa nước (100%), ngủ màn (97,6%), diệt muỗi (51,8%), vệ sinh môi trường (49,4%).
- Tỷ lệ ngủ màn đúng cách chỉ đạt 17,3%.
- Thực hành diệt muỗi và diệt bọ gậy/lăng quăng ở mức trung bình, lần lượt 51,8% và 38%.
- Nữ giới có kiến thức và thực hành phòng bệnh tốt hơn nam giới, với OR lần lượt là 4,35 (diệt muỗi), 6,47 (vệ sinh DCCN), 2,48 (vệ sinh môi trường), và thực hành vệ sinh môi trường cao gấp 3,91 lần so với nam.
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy mức độ nguy cơ bùng phát dịch SXHD tại các khu nhà trọ xã Nhân Cơ là cao, thể hiện qua chỉ số BI vượt ngưỡng an toàn. Điều này phù hợp với đặc điểm khu vực có mật độ dân cư cao, điều kiện vệ sinh môi trường và hệ thống nước sinh hoạt chưa đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi Aedes sinh sản. So với các nghiên cứu tại các tỉnh Tây Nguyên và miền Nam, chỉ số BI tại đây tương đối cao, phản ánh sự cần thiết của các biện pháp kiểm soát véc tơ hiệu quả.
Mức độ kiến thức về bệnh SXHD của người thuê trọ tương đối tốt về triệu chứng và con đường lây truyền, tuy nhiên còn tồn tại nhầm lẫn về tên muỗi truyền bệnh và vòng đời muỗi, ảnh hưởng đến hiệu quả phòng chống. Thực hành phòng bệnh mặc dù có tỷ lệ cao trong việc vệ sinh dụng cụ chứa nước và ngủ màn, nhưng cách thức thực hiện chưa đúng, đặc biệt là ngủ màn đúng cách còn thấp. Sự khác biệt về kiến thức và thực hành giữa nam và nữ cho thấy cần tập trung truyền thông hướng đến nhóm nam giới thuê trọ.
Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ phân bố các chỉ số véc tơ, bảng so sánh tỷ lệ kiến thức và thực hành theo giới tính, cũng như biểu đồ tần suất các biện pháp phòng bệnh được thực hiện. So sánh với các nghiên cứu trong khu vực và quốc tế cho thấy xu hướng tương đồng về mức độ hiểu biết và thực hành phòng bệnh SXHD, đồng thời nhấn mạnh vai trò của truyền thông cộng đồng và cải thiện điều kiện sống trong phòng chống dịch.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường truyền thông phòng bệnh SXHD hướng đến nam giới thuê trọ
- Tập trung vào các nội dung: ngủ màn cả ngày lẫn đêm, diệt muỗi, vệ sinh dụng cụ chứa nước (DCCN), vệ sinh môi trường.
- Thời gian thực hiện: trong vòng 6 tháng tới.
- Chủ thể thực hiện: Trung tâm Y tế huyện Đăk R’Lấp phối hợp với Ban quản lý khu nhà trọ.
Cải thiện hệ thống cung cấp nước và thu gom rác thải tại các khu nhà trọ
- Đảm bảo hệ thống nước kín, liên tục, hạn chế dụng cụ chứa nước không kiểm soát.
- Xây dựng hệ thống thu gom và xử lý rác thải hiệu quả, giảm phế thải đọng nước.
- Thời gian thực hiện: 12 tháng.
- Chủ thể thực hiện: UBND xã Nhân Cơ phối hợp với chủ nhà trọ và các doanh nghiệp địa phương.
Tổ chức các hoạt động giám sát véc tơ định kỳ và xử lý kịp thời
- Giám sát muỗi trưởng thành và bọ gậy/lăng quăng hàng quý.
- Phun hóa chất diệt muỗi khi chỉ số véc tơ vượt ngưỡng nguy cơ.
- Chủ thể thực hiện: Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Đăk Nông và trạm y tế xã Nhân Cơ.
Đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ y tế và cộng tác viên phòng chống SXHD
- Tập huấn kỹ năng truyền thông, giám sát véc tơ và tư vấn phòng bệnh.
- Thời gian: 3 tháng đầu năm.
- Chủ thể thực hiện: Trường Đại học Y tế Công cộng phối hợp với Sở Y tế tỉnh Đăk Nông.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cán bộ y tế dự phòng và nhân viên trạm y tế xã, huyện
- Lợi ích: Nắm bắt thực trạng véc tơ và kiến thức thực hành phòng bệnh tại cộng đồng, từ đó xây dựng kế hoạch can thiệp phù hợp.
- Use case: Lập kế hoạch giám sát véc tơ và truyền thông phòng chống SXHD.
Chủ nhà trọ và quản lý khu nhà trọ
- Lợi ích: Hiểu rõ vai trò trong việc cải thiện điều kiện sinh hoạt, vệ sinh môi trường và phối hợp phòng chống dịch.
- Use case: Thiết lập nội quy, tổ chức vệ sinh khu trọ định kỳ.
Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng, dịch tễ học
- Lợi ích: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, số liệu thực tế và phân tích về véc tơ truyền bệnh SXHD trong môi trường nhà trọ.
- Use case: Phát triển đề tài nghiên cứu liên quan hoặc ứng dụng mô hình nghiên cứu.
Các tổ chức phi chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về y tế
- Lợi ích: Đánh giá hiệu quả các chương trình phòng chống SXHD, đề xuất chính sách và hỗ trợ kỹ thuật.
- Use case: Xây dựng chương trình can thiệp cộng đồng và hỗ trợ kỹ thuật cho địa phương.
Câu hỏi thường gặp
Bệnh sốt xuất huyết Dengue lây truyền qua con đường nào?
Bệnh SXHD lây truyền chủ yếu qua muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus đốt. Virus Dengue được truyền từ người bệnh sang người lành qua muỗi cái hút máu. Ví dụ, trong nghiên cứu, 96,9% người dân nhận biết muỗi là con đường lây truyền chính.Chỉ số Breteau (BI) là gì và có ý nghĩa như thế nào?
BI là số dụng cụ chứa nước có bọ gậy Aedes trên 100 nhà điều tra, dùng để đánh giá mật độ véc tơ truyền bệnh. BI ≥ 30 được xem là ngưỡng nguy cơ cao bùng phát dịch. Nghiên cứu tại Nhân Cơ ghi nhận BI = 38,3, cho thấy nguy cơ dịch bệnh cao.Tại sao việc vệ sinh dụng cụ chứa nước (DCCN) lại quan trọng trong phòng chống SXHD?
Muỗi Aedes đẻ trứng và phát triển ở các dụng cụ chứa nước đọng. Vệ sinh DCCN giúp loại bỏ nơi sinh sản của muỗi, giảm mật độ véc tơ. Trong nghiên cứu, 100% người thực hiện vệ sinh DCCN là biện pháp phòng bệnh phổ biến nhất.Tỷ lệ người dân ngủ màn đúng cách có cao không?
Tỷ lệ ngủ màn đúng cách còn thấp, chỉ khoảng 17,3%. Mặc dù 97,6% người dân có thói quen ngủ màn, nhưng phần lớn chưa thực hiện đúng cách, ảnh hưởng đến hiệu quả phòng chống muỗi đốt.Giới tính ảnh hưởng như thế nào đến kiến thức và thực hành phòng bệnh SXHD?
Nữ giới có kiến thức và thực hành phòng bệnh tốt hơn nam giới. Ví dụ, kiến thức diệt muỗi của nữ cao gấp 4,35 lần, thực hành vệ sinh môi trường cao gấp 3,91 lần so với nam giới. Do đó, truyền thông cần tập trung hơn vào nhóm nam giới thuê trọ.
Kết luận
- Thực trạng véc tơ truyền bệnh SXHD tại các khu nhà trọ xã Nhân Cơ có chỉ số Breteau vượt ngưỡng nguy cơ, tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch cao.
- Người thuê trọ có mức độ kiến thức tương đối tốt về triệu chứng và con đường lây truyền SXHD, nhưng còn nhầm lẫn về tên muỗi và vòng đời phát triển.
- Thực hành phòng bệnh phổ biến là vệ sinh dụng cụ chứa nước và ngủ màn, tuy nhiên tỷ lệ thực hiện đúng cách còn thấp, đặc biệt là ngủ màn.
- Nữ giới có kiến thức và thực hành phòng bệnh tốt hơn nam giới, cần tăng cường truyền thông hướng đến nhóm nam giới thuê trọ.
- Đề xuất các giải pháp cải thiện hệ thống nước, thu gom rác, giám sát véc tơ và nâng cao năng lực cán bộ y tế để giảm thiểu nguy cơ dịch SXHD tại khu vực nghiên cứu.
Tiếp theo, cần triển khai các hoạt động truyền thông và giám sát véc tơ theo khuyến nghị, đồng thời mở rộng nghiên cứu đánh giá hiệu quả các can thiệp trong thời gian tới. Các cơ quan y tế và quản lý địa phương được khuyến khích phối hợp chặt chẽ để thực hiện các biện pháp phòng chống SXHD hiệu quả, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Hành động ngay hôm nay để phòng chống sốt xuất huyết hiệu quả tại các khu nhà trọ!