Diễn Ngôn Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Minh Châu Sau 1975

Trường đại học

Trường Đại Học Quy Nhơn

Chuyên ngành

Văn Học Việt Nam

Người đăng

Ẩn danh

2021

112
0
0

Phí lưu trữ

30.000 VNĐ

Tóm tắt

I. Tổng Quan Nghiên Cứu Diễn Ngôn Tự Sự Trong Văn Học

Trong bối cảnh văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu nổi lên như một tác giả có vị trí quan trọng. Ông không chỉ là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm xuất sắc mà còn được xem là người mở đường tinh anh và tài năng nhất, nhà văn tiên phong của văn học đổi mới. Sáng tác của ông thể hiện rõ thái độ thức nhận về thực tiễn theo nguyên tắc minh họa của một thời. Nhà văn phủ nhận nguyên tắc sáng tác ấy bằng cách nỗ lực đổi mới nhận thức về chính trị cũng như tư duy nghệ thuật, cách viết. Các tác phẩm ra đời sau 1975 của ông đã tạo ra bước ngoặt hết sức quan trọng cho sự đổi mới văn học dân tộc. Nghiên cứu Nguyễn Minh Châu để thấy được giá trị nghệ thuật phong phú cũng như những đóng góp to lớn của ông đối với văn học Việt Nam hiện đại, do đó, là công việc cần thiết, mang ý nghĩa lí luận và thực tiễn.

1.1. Lý Do Chọn Đề Tài Nghiên Cứu Nguyễn Minh Châu

Trong nhà trường, Nguyễn Minh Châu cũng là một tác giả lớn với nhiều tác phẩm ưu tú được lựa chọn đưa vào giảng dạy ở nhiều cấp bậc học. Trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành, hai truyện ngắn Bến quê và Chiếc thuyền ngoài xa được giảng dạy ở lớp 9 và lớp 12. Sắp tới đây, trong chương trình tổng thể Ngữ văn (ban hành năm 2018), truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của ông lại sẽ được đưa vào giảng dạy ở trung học phổ thông. Nghiên cứu Nguyễn Minh Châu, vì thế, còn có ý nghĩa nhất định đối với hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh.

1.2. Tình Hình Nghiên Cứu Về Nguyễn Minh Châu Hiện Nay

Là một tác giả tài năng có nhiều đóng góp lớn, Nguyễn Minh Châu được chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tiên. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, đã có hàng trăm công trình lớn nhỏ về Nguyễn Minh Châu được công bố. Tuy nhiên, lịch sử nghiên cứu Nguyễn Minh Châu vẫn chưa dừng lại. Những năm gần đây, nhiều lý thuyết nghiên cứu văn học mới cũng đã được áp dụng để khai thác, khám phá các tầng vỉa trong tác phẩm của ông. Bên cạnh nghiên cứu theo hướng thi pháp học, tự sự học, ký hiệu học…; sáng tác của Nguyễn Minh Châu cũng bắt đầu được nhìn nhận dưới lăng kính của phê bình sinh thái, lý thuyết diễn ngôn

II. Diễn Ngôn Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Minh Châu

Nghiên cứu sáng tác Nguyễn Minh Châu dưới góc độ lý thuyết diễn ngôn là một hướng đi tiềm năng, hứa hẹn mở ra con đường tiếp cận mới đầy triển vọng. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay, việc vận dụng lý thuyết diễn ngôn vào nghiên cứu Nguyễn Minh Châu mới dừng lại ở một số tác phẩm riêng biệt và ở thể loại truyện ngắn. Nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu nói chung, các tiểu thuyết sau 1975 nói riêng dưới góc độ lý thuyết diễn ngôn vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Xuất phát từ thực tiễn trên cùng mong muốn khám phá tiểu thuyết của ông bằng lý thuyết diễn ngôn, chúng tôi kế thừa các nhà nghiên cứu đi trước và phát triển luận văn Diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu sau 1975.

2.1. Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Diễn Ngôn

Trên thế giới, trào lưu vận dụng lý thuyết diễn ngôn vào nghiên cứu văn học diễn ra rầm rộ từ những năm 60 của thế kỷ XX. Ở nước ta, đây là một hướng nghiên cứu còn tương đối mới mẻ. Khởi đi từ các công trình ngôn ngữ học liên quan đến lý thuyết diễn ngôn và các công trình dịch thuật, giới thiệu về diễn ngôn văn học, những công trình nghiên cứu văn học Việt Nam dưới góc độ lý thuyết diễn ngôn bắt đầu xuất hiện từ cuối thế kỷ XX.

2.2. Các Nghiên Cứu Tiêu Biểu Về Diễn Ngôn Ở Việt Nam

Trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, hướng nghiên cứu ngày càng quan tâm, với nhiều công trình quan trọng ra đời. Có thể kể ra những công trình tiêu biểu như Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 của Trần Văn Toàn (2009), Quy ước diễn ngôn giai đoạn 1986-1991 (2010) và Diễn ngôn về sự thật trong văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới (2015) của Trần Thiện Khanh, Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn của Nguyễn Thị Ngọc Minh (2012), Luận văn thạc sĩ Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và Hội thề của Nguyễn Quang Thân của Trương Thị Nhung (2014)...

III. Mục Tiêu Phương Pháp Nghiên Cứu Diễn Ngôn Tự Sự

Mục đích luận văn là tập trung làm sáng rõ những diễn ngôn tự sự tiêu biểu trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu sau 1975 để thấy được những đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn cũng như những cách tân trong tiểu thuyết của ông sau 1975. Qua đó, thấy được những bước đi tiên phong của Nguyễn Minh Châu và những đóng góp quan trọng của ông đối với sự đổi mới tiểu thuyết nói riêng, văn học Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất nói chung. Để thực hiện mục đích nghiên cứu này, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ khảo sát, mô tả, phân tích, biện giải về các diễn ngôn tiêu biểu cùng những chiến lược diễn giải nổi bật trong tiểu thuyết sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.

3.1. Đối Tượng Và Phạm Vi Nghiên Cứu Của Luận Văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề nổi bật, tiêu biểu trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu tham chiếu từ góc nhìn của lý thuyết diễn ngôn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu ra đời sau 1975, cụ thể là 4 tác phẩm sau: Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1982) và Mảnh đất tình yêu (1987).

3.2. Phương Pháp Nghiên Cứu Được Sử Dụng Trong Luận Văn

Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: Phương pháp phân tích ngôn ngữ học, Phương pháp loại hình, Phương pháp liên văn bản, Phương pháp liên ngành. Ngoài ra, để thực hiện luận văn này, chúng tôi còn sử dụng những thao tác nghiên cứu như so sánh đối chiếu, phân tích khái quát, phân loại, đánh giá,… Đây là những thao tác được sử dụng xuyên suốt trong quá trình giải quyết những vấn đề nêu ra trong luận văn.

IV. Lý Thuyết Diễn Ngôn Khái Niệm Ứng Dụng Văn Học

Thuật ngữ diễn ngôn chỉ mới xuất hiện trong tiếng Việt trong vòng ba thập niên gần đây. Bằng chứng là các cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản trước năm 2000, tiêu biểu là Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ (Hoàng Phê chủ biên, 1997), không ghi nhận mục từ diễn ngôn. Thuật ngữ này chỉ được dùng trong một phạm vi khá hẹp, chủ yếu ở một số ngành khoa học xã hội và nhân văn như ngôn ngữ học, văn học, lịch sử. Diễn ngôn vốn có nguồn gốc phương Tây, được dịch từ thuật ngữ discourse. Theo Diệp Quang Ban trong công trình Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, “nhà ngôn ngữ học người Bỉ E.Buysen là người đầu tiên sử dụng discourse như một khái niệm chuyên môn trong tác phẩm Hoạt động nói năng và văn bản (1943)” [65].

4.1. Nguồn Gốc Và Sự Phát Triển Của Khái Niệm Diễn Ngôn

Ban đầu, diễn ngôn là một thuật ngữ của chuyên ngành ngôn ngữ học. Về sau, thuật ngữ này được mượn lại ở nhiều ngành khoa học, trong đó có khoa văn học. Ở phương Tây, nghiên cứu diễn ngôn trở thành một trào lưu khoa học phát triển rất mạnh và “trở thành một khái niệm trung tâm, được lưu hành rộng rãi trong khoa học xã hội và nhân văn” [65] từ những năm 60 của thế kỷ XX.

4.2. Các Cách Hiểu Về Khái Niệm Diễn Ngôn Hiện Nay

Ở nước ta, vấn đề diễn ngôn được giới thiệu, ứng dụng từ những năm cuối thế kỷ XX, khởi đầu từ những công trình nghiên cứu ngôn ngữ học. Tuy nhiên, cho đến nay, thuật ngữ diễn ngôn vẫn chưa có sự thống nhất trong cách hiểu. Theo Trần Đình Sử, một trong những nhà lý luận văn học tiếp cận với lý thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn học từ rất sớm, “trong thời gian gần đây trong nghiên cứu văn học, xã hội học, khái niệm diễn ngôn đã được sử dụng nhiều, song nhìn kĩ các tài liệu tiếng Việt khi sử dụng khái niệm này hiện còn có phần lúng túng” [80].

V. Tiểu Thuyết Nguyễn Minh Châu Sau 1975 Đổi Mới Tư Duy

Năm 1993, trong bài viết “Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn con người” [29], Nguyễn Văn Hạnh từ việc quan sát sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong những năm 80 đã đi đến khẳng định nhà văn có sự dũng cảm phủ định chính mình để thay đổi cách nhìn về con người và cuộc sống, từ đó thay đổi cách viết. Đây là một trong những công trình sớm nhất nghiên cứu quá trình chuyển biến, đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

5.1. Các Nghiên Cứu Về Phong Cách Nghệ Thuật Nguyễn Minh Châu

Năm 1999, Lại Nguyên Ân, Tôn Phương Lan tập hợp, tuyển chọn từ các bài viết quan trọng về Nguyễn Minh Châu đã công bố trên các báo, tạp chí thành cuốn Nguyễn Minh Châu con người và tác phẩm [5]. Đây là một trong những công trình cập nhật kịp thời, thể hiện khá đầy đủ chân dung Nguyễn Minh Châu và sự nghiệp văn học của ông. Cũng trong năm này, Tôn Phương Lan công bố Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu [54]. Đây là một trong những chuyên luận quan trọng về Nguyễn Minh Châu.

5.2. Cảm Hứng Nhân Văn Trong Tác Phẩm Nguyễn Minh Châu

Năm 2006, Phạm Duy Nghĩa trong chuyên luận Nhà văn Nguyễn Minh Châu và cảm hứng nhân văn [67]. Từ việc nghiên cứu các cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã đi đến kết luận nhân văn là cảm hứng chủ đạo, làm nên giá trị của văn chương Nguyễn Minh Châu. Đây là một trong những công trình quan trọng về Nguyễn Minh Châu trên phương diện cảm hứng nghệ thuật.

VI. Phân Tích Diễn Ngôn Tự Sự Trong Các Tác Phẩm Tiêu Biểu

Năm 2011, trong luận văn Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu sau 1975 [87], Trần Thị Thu tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu ở cả hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật đã chỉ ra những đặc điểm quan cơ bản của tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau 1975. Ngoài ra, hàng trăm công trình lớn nhỏ khác về Nguyễn Minh Châu như: Chất sử thi và chất trữ tình trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu (2001) của Lại Thị Hồng Vân [91], Nguyễn Minh Châu nhà văn chiến sĩ (2004) của Nguyễn Văn Kha [47], Chủ đề đạo đức trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 (2008) của Trần Danh Sơn [78]...

6.1. Nghiên Cứu Diễn Ngôn Trong Truyện Ngắn Nguyễn Minh Châu

Ở lĩnh vực lý thuyết diễn ngôn, đáng chú ý nhất là công trình Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu từ góc nhìn của lý thuyết diễn ngôn năm 2015 của Trần Văn Lực [59]. Trong luận văn này, tác giả đã tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Minh Châu bằng lý thuyết diễn ngôn ở hai chặng đường sáng tác: trước và sau 1975 với nhiều phát hiện mới mẻ, những kiến giải thuyết phục về nhiều vấn đề đặt ra trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

6.2. Hướng Nghiên Cứu Mới Về Tiểu Thuyết Nguyễn Minh Châu

Về nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu nói chung, tiểu thuyết của ông sau 1975 nói riêng dưới góc độ lý thuyết diễn ngôn, theo như sự quan sát, tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay hầu như chưa có những công trình tập trung, chuyên sâu, hệ thống. Luận văn Diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu sau 1975 có thể xem là một trong những công trình đầu tiên cho hướng nghiên cứu này.

06/06/2025

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Luận văn thạc sỹ diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết nguyễn minh châu sau 1975
Bạn đang xem trước tài liệu : Luận văn thạc sỹ diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết nguyễn minh châu sau 1975

Để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút

Tải xuống

Tài liệu "Nghiên Cứu Diễn Ngôn Tự Sự Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Minh Châu Sau 1975" mang đến cái nhìn sâu sắc về nghệ thuật tự sự trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là sau năm 1975. Tác giả phân tích cách mà diễn ngôn tự sự không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân vật, từ đó tạo nên chiều sâu cho câu chuyện. Bài viết không chỉ giúp độc giả hiểu rõ hơn về phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu mà còn mở ra những góc nhìn mới về văn học Việt Nam trong giai đoạn này.

Để mở rộng thêm kiến thức về chủ đề này, bạn có thể tham khảo các tài liệu liên quan như Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết cuộc cờ của Phạm Quang Long, nơi khám phá nghệ thuật tự sự trong một tác phẩm khác, hay Khóa luận tốt nghiệp văn học đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1980, giúp bạn hiểu thêm về các tác phẩm ngắn của tác giả. Cuối cùng, Luận văn thạc sĩ văn học Việt Nam nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng là một tài liệu thú vị để so sánh và đối chiếu với phong cách của Nguyễn Minh Châu. Những tài liệu này sẽ giúp bạn mở rộng hiểu biết và khám phá sâu hơn về nghệ thuật tự sự trong văn học Việt Nam.