Tổng quan nghiên cứu
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp với gần 70% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn, trong đó nông nghiệp đóng góp khoảng 22% vào GDP quốc gia. Trong thập kỷ qua, ngành nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, đặc biệt các mặt hàng như cà phê luôn giữ vị trí xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng kéo theo lượng chất thải rắn (CTR) phát sinh ngày càng lớn, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp (SXNN). Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2011, hoạt động SXNN phát sinh khoảng 11.000 tấn bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và 240.000 tấn bao bì phân bón mỗi năm, trong khi hệ thống xử lý chất thải tại các vùng nông thôn còn rất hạn chế.
Huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông, với diện tích đất trồng trọt 25.818 ha, chiếm 12,57% diện tích toàn tỉnh, là địa bàn nghiên cứu điển hình với hoạt động SXNN chủ yếu là trồng cà phê – loại cây sử dụng nhiều thuốc BVTV và phân bón. Hiện tại, huyện chưa có hệ thống quản lý CTR nông nghiệp hiệu quả, dẫn đến tình trạng người dân thải bỏ chất thải vô cơ trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước và đất đai.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá nhận thức của người dân về sự nguy hại của CTR trong SXNN, khảo sát thực trạng quản lý CTR, phân tích nguyên nhân sự khác biệt giữa nhận thức và hành động, từ đó đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp. Nghiên cứu được thực hiện tại hai xã Đăk Ndrung và Trường Xuân, huyện Đăk Song, trong khoảng thời gian tháng 1 năm 2013. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý CTR nông nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngành nông nghiệp địa phương.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình sau:
Lý thuyết hành vi quy hoạch (Theory of Planned Behavior) của Ajzen (1991): Giải thích mối quan hệ giữa niềm tin, thái độ, tiêu chuẩn chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi và hành vi thực tế của cá nhân. Lý thuyết này giúp phân tích sự khác biệt giữa nhận thức và hành động của người dân trong quản lý CTR.
Khái niệm và phân loại chất thải rắn (CTR): CTR được định nghĩa là vật liệu thải ra không phải nước thải và khí thải, bao gồm cả chất rắn, nửa đặc và chất lỏng. CTR được phân loại theo mức độ nguy hại (độc hại và không độc hại), khả năng phân hủy (dễ và khó phân hủy), và nguồn gốc phát sinh (sinh hoạt, công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp).
Ngoại tác tiêu cực của CTR: CTR phát sinh trong SXNN được xem là ngoại tác tiêu cực nếu không được quản lý hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu ngoại tác này bao gồm thu gom, phân loại, xử lý và tái chế.
Quản lý CTR trong SXNN: Theo Nghị định số 59/2007/NĐ-CP, quản lý CTR bao gồm các hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Phương pháp nghiên cứu
Nguồn dữ liệu:
- Số liệu sơ cấp: Thu thập qua phỏng vấn trực tiếp 120 hộ nông dân tại hai xã Đăk Ndrung và Trường Xuân, sử dụng phiếu điều tra thiết kế chuyên biệt về nhận thức và quản lý CTR trong SXNN.
- Số liệu thứ cấp: Tổng hợp từ báo cáo của UBND huyện Đăk Song, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đăk Nông, các nghiên cứu và chính sách liên quan.
Phương pháp chọn mẫu: Mẫu được chọn ngẫu nhiên theo phương pháp phân tầng, đảm bảo đại diện cho các thôn, buôn trong hai xã nghiên cứu, với tỷ lệ phân bổ đều giữa các nhóm dân tộc và địa bàn.
Phương pháp phân tích: Sử dụng phần mềm Microsoft Excel để xử lý dữ liệu, áp dụng thống kê mô tả và so sánh tỷ lệ phần trăm giữa các nhóm xã và dân tộc. Phân tích định tính được thực hiện qua phỏng vấn sâu và khảo sát thực địa.
Timeline nghiên cứu:
- Thu thập dữ liệu sơ cấp trong 10 ngày (11/01/2013 – 20/01/2013).
- Tổng hợp và phân tích dữ liệu trong tháng 2 và 3 năm 2013.
- Viết báo cáo và hoàn thiện luận văn trong quý II năm 2013.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Nhận thức về hiện trạng và mức độ nguy hại của CTR:
- 41,67% người dân cho rằng hiện tại có rất nhiều CTR trong SXNN, 45% cho rằng có ít nhưng sẽ tăng trong tương lai, chỉ 13,33% lạc quan về mức độ CTR hiện tại.
- 56,67% người dân đánh giá mức độ ảnh hưởng của CTR đến sản xuất và sinh hoạt là nhiều, chỉ 8,33% cho rằng không ảnh hưởng.
- 86,6% người dân xác định CTR phát sinh từ thuốc BVTV là loại nguy hại nhất.
Thực trạng quản lý CTR vô cơ:
- 89,2% hộ sử dụng thuốc BVTV, trong đó 51,2% bỏ bao bì trực tiếp tại ruộng, 16% vứt ra kênh mương, sông suối.
- Chỉ 19,2% hộ có biện pháp xử lý như chôn đốt hoặc thu gom để bán phế liệu.
- Đối với bao bì phân bón và thức ăn chăn nuôi, 98,33% hộ tận dụng để đựng nông sản, tuy nhiên khi không thể tái sử dụng, 59,17% thải trực tiếp ra môi trường.
Quản lý CTR hữu cơ:
- 88,03% người dân tận dụng vỏ, bã nông sản để ủ làm phân hữu cơ.
- Đa số thân, cành cây được bỏ trực tiếp tại ruộng hoặc gom đốt khi khô, ảnh hưởng môi trường thấp do dễ phân hủy.
- Hoạt động chăn nuôi còn nhỏ lẻ, 75% hộ tận dụng chất thải chăn nuôi làm phân bón, 25% thải ra tự nhiên.
Nguyên nhân sự khác biệt giữa nhận thức và hành động:
- Chính quyền địa phương chưa có chính sách hay biện pháp quản lý CTR nông nghiệp, không có nơi chứa rác tập trung.
- Người dân bỏ CTR tại ruộng do thói quen (32,65%), thuận tiện (36,73%) và thiếu kiến thức (22,45%).
- 61,67% người dân tự học hỏi cách quản lý CTR, không có chương trình tập huấn chính thức.
- Mô hình hành vi quy hoạch cho thấy thái độ thuận lợi, tiêu chuẩn chủ quan giảm và nhận thức kiểm soát hành vi dễ dàng dẫn đến hành vi bỏ CTR tại ruộng phổ biến.
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy CTR trong SXNN là vấn đề môi trường nghiêm trọng tại huyện Đăk Song, đặc biệt là CTR vô cơ từ thuốc BVTV và phân bón. Mặc dù người dân nhận thức được mức độ nguy hại, hành vi thực tế vẫn chưa thay đổi do thiếu sự can thiệp của chính quyền và thiếu các điểm thu gom phù hợp. So sánh với các nghiên cứu tại các địa phương khác, tình trạng này tương tự nhưng mức độ tham gia và nhận thức có sự khác biệt do điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách địa phương.
Việc người dân tận dụng CTR hữu cơ cho thấy tiềm năng tái chế và giảm thiểu ô nhiễm nếu được hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao nhận thức. Các mô hình thu gom rác thải thuốc BVTV tại một số địa phương khác như Đồng Tháp, Tuyên Quang đã chứng minh hiệu quả khi có sự phối hợp giữa chính quyền và cộng đồng.
Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ nhận thức và hành vi quản lý CTR theo nhóm xã và dân tộc, bảng phân loại CTR và phương thức xử lý tương ứng, giúp minh họa rõ ràng sự khác biệt và mức độ ảnh hưởng.
Đề xuất và khuyến nghị
Xây dựng các điểm thu gom CTR nông nghiệp
- Thiết lập thùng chứa CTR tại các khu vực tập trung dân cư và vùng canh tác cao, đảm bảo thuận tiện cho người dân.
- Thời gian thực hiện: 6 tháng đầu năm 2024.
- Chủ thể thực hiện: UBND xã phối hợp với các tổ chức nông dân và đoàn thanh niên.
Tăng cường vận động, nâng cao nhận thức người dân
- Tổ chức các buổi tuyên truyền, tập huấn về tác hại của CTR và cách quản lý đúng cách.
- Sử dụng các kênh truyền thông địa phương, khẩu hiệu, và mô hình điểm để lan tỏa.
- Thời gian: liên tục trong năm 2024.
- Chủ thể: Phòng Tài nguyên và Môi trường, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên.
Áp dụng phí môi trường đối với vật tư nông nghiệp (VTNN)
- Đề xuất chính sách thu phí môi trường khi mua VTNN, một phần phí hoàn trả khi người dân mang bao bì, chai lọ đến điểm thu gom.
- Tạo động lực kinh tế để người dân tham gia quản lý CTR.
- Thời gian: nghiên cứu và đề xuất trong năm 2024, triển khai từ 2025.
- Chủ thể: Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính, UBND tỉnh.
Tăng cường vai trò quản lý của chính quyền địa phương
- Xây dựng cơ chế giám sát, xử lý vi phạm trong quản lý CTR nông nghiệp.
- Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội và cộng đồng trong giám sát.
- Thời gian: triển khai ngay trong năm 2024.
- Chủ thể: UBND xã, các ban ngành liên quan.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và nông nghiệp
- Lợi ích: Cơ sở khoa học để xây dựng chính sách quản lý CTR nông nghiệp hiệu quả.
- Use case: Thiết kế chương trình thu gom và xử lý CTR tại các địa phương.
Các tổ chức nông dân và hợp tác xã
- Lợi ích: Nâng cao nhận thức và kỹ năng quản lý CTR cho hội viên.
- Use case: Tổ chức các hoạt động thu gom, tái chế CTR trong cộng đồng.
Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành chính sách công, môi trường
- Lợi ích: Tài liệu tham khảo về phương pháp nghiên cứu và phân tích hành vi trong quản lý môi trường.
- Use case: Phát triển các đề tài nghiên cứu tiếp theo hoặc ứng dụng lý thuyết hành vi quy hoạch.
Doanh nghiệp xử lý chất thải và sản xuất vật tư nông nghiệp
- Lợi ích: Hiểu rõ nhu cầu và hành vi người dân để phát triển dịch vụ thu gom và tái chế phù hợp.
- Use case: Xây dựng mô hình kinh doanh thu gom bao bì VTNN hiệu quả.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao CTR vô cơ trong nông nghiệp lại gây ô nhiễm nghiêm trọng?
CTR vô cơ như bao bì thuốc BVTV, phân bón khó phân hủy và chứa chất độc hại, khi thải trực tiếp ra môi trường sẽ gây ô nhiễm đất, nước và ảnh hưởng sức khỏe con người. Ví dụ, hơn 51% người dân tại Đăk Song bỏ bao bì thuốc BVTV tại ruộng, làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước.Người dân có nhận thức đúng về tác hại của CTR không?
Phần lớn người dân nhận thức CTR có ảnh hưởng xấu đến sản xuất và sinh hoạt, với 56,67% đánh giá mức độ ảnh hưởng là nhiều. Tuy nhiên, do thói quen và thiếu điểm thu gom, hành vi thực tế vẫn chưa thay đổi.Giải pháp nào hiệu quả để nâng cao quản lý CTR nông nghiệp?
Xây dựng điểm thu gom thuận tiện, vận động nâng cao nhận thức và áp dụng phí môi trường cho VTNN là các giải pháp khả thi. Mô hình thu gom bao bì thuốc BVTV tại Đồng Tháp đã giảm đáng kể CTR nguy hại.Vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý CTR là gì?
Chính quyền cần xây dựng chính sách, tổ chức thu gom, giám sát và xử lý vi phạm. Hiện tại, tại Đăk Song, chính quyền chưa có biện pháp quản lý hiệu quả, dẫn đến tình trạng bỏ rác tự do.Làm thế nào để người dân tham gia tích cực vào quản lý CTR?
Cần tạo động lực kinh tế qua chính sách hoàn trả phí môi trường, đồng thời nâng cao nhận thức và tạo thuận tiện trong thu gom. Kết quả khảo sát cho thấy 90% người dân sẵn sàng tham gia nếu được hỗ trợ.
Kết luận
- Huyện Đăk Song là vùng nông nghiệp trọng điểm với hoạt động SXNN phát sinh lượng lớn CTR đa dạng về loại hình và mức độ ảnh hưởng.
- Người dân nhận thức CTR trong SXNN là vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt CTR vô cơ từ thuốc BVTV và phân bón, nhưng hành vi quản lý chưa đồng bộ do thiếu điểm thu gom và chính sách hỗ trợ.
- CTR hữu cơ được tận dụng hiệu quả làm phân bón, giảm thiểu tác động môi trường.
- Nguyên nhân chính của tình trạng bỏ CTR tại ruộng là thói quen, thuận tiện và thiếu sự quản lý của chính quyền địa phương.
- Đề xuất các giải pháp xây dựng điểm thu gom, nâng cao nhận thức, áp dụng phí môi trường và tăng cường vai trò quản lý của chính quyền nhằm cải thiện hiệu quả quản lý CTR trong SXNN.
Next steps: Triển khai thí điểm các điểm thu gom CTR tại huyện Đăk Song trong năm 2024, đồng thời xây dựng chính sách phí môi trường cho VTNN. Mời các cơ quan, tổ chức liên quan phối hợp thực hiện để bảo vệ môi trường nông thôn bền vững.