Tổng quan nghiên cứu

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường nhiều thành phần tại Việt Nam ngày càng phát triển, công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội (BHXH) trở thành một nội dung trọng yếu nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và đảm bảo nguồn quỹ an sinh xã hội. Tính đến năm 2016, cả nước có khoảng 76,1 triệu người tham gia các loại hình BHXH, BHYT và BHTN, trong đó chỉ có khoảng 12,9 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, chiếm trên 20% lực lượng lao động. Tình trạng nhiều doanh nghiệp chưa tham gia hoặc tham gia không đầy đủ BHXH vẫn còn phổ biến, đặc biệt trong khu vực ngoài nhà nước. Trên địa bàn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, với hơn 425 đơn vị doanh nghiệp và gần 18.000 lao động tham gia BHXH bắt buộc năm 2016, công tác quản lý thu BHXH có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi người lao động và sự phát triển bền vững của quỹ BHXH.

Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý thu BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Kinh Môn giai đoạn 2012-2016, từ đó đề xuất các biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu giai đoạn 2017-2020. Mục tiêu cụ thể bao gồm hệ thống hóa cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, xác định các yếu tố ảnh hưởng và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý thu BHXH. Nghiên cứu có phạm vi không gian tại huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và phạm vi thời gian từ năm 2012 đến 2016, với các biện pháp đề xuất áp dụng đến năm 2020. Ý nghĩa nghiên cứu thể hiện qua việc góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thu BHXH, đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trên địa bàn.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Luận văn dựa trên các lý thuyết và mô hình quản lý thu BHXH, trong đó có:

  • Khái niệm bảo hiểm xã hội (BHXH): BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già hoặc tử tuất, dựa trên quỹ tài chính do các bên tham gia đóng góp và có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật.

  • Quản lý thu BHXH: Là quá trình tác động có tổ chức, có mục tiêu của chủ thể quản lý (cơ quan BHXH) đến đối tượng quản lý (người sử dụng lao động và người lao động) nhằm thu đúng, đủ, kịp thời các khoản đóng góp BHXH theo quy định pháp luật.

  • Mô hình quản lý thu BHXH: Bao gồm các yếu tố như chính sách pháp luật, tổ chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ, công tác tuyên truyền vận động, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.

  • Các khái niệm chính: Mức đóng BHXH, phương thức đóng, đối tượng tham gia, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, tỷ lệ nợ đọng BHXH, hiệu quả công tác thu BHXH.

Phương pháp nghiên cứu

  • Nguồn dữ liệu: Sử dụng số liệu thứ cấp thu thập từ BHXH huyện Kinh Môn, BHXH tỉnh Hải Dương, Cục Thống kê tỉnh Hải Dương, phòng kinh tế huyện Kinh Môn, chi cục thuế huyện Kinh Môn và các tài liệu pháp luật, báo cáo ngành liên quan.

  • Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập dữ liệu thứ cấp từ các báo cáo, văn bản pháp luật, số liệu thống kê và tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước.

  • Phương pháp phân tích: Áp dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá thực trạng, phân tích biến động số liệu thu BHXH qua các năm; phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối để đánh giá mức độ thay đổi; phương pháp phân tổ thống kê nhằm phân loại và so sánh các nhóm đối tượng tham gia BHXH; tham vấn ý kiến chuyên gia để bổ sung nhận định và đề xuất giải pháp.

  • Cỡ mẫu và chọn mẫu: Nghiên cứu tập trung vào toàn bộ các doanh nghiệp và đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện Kinh Môn tham gia BHXH trong giai đoạn 2012-2016, với tổng số 425 đơn vị và gần 18.000 lao động tham gia BHXH bắt buộc năm 2016.

  • Timeline nghiên cứu: Thu thập và phân tích dữ liệu giai đoạn 2012-2016, đề xuất biện pháp áp dụng cho giai đoạn 2017-2020.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tăng trưởng số lượng đơn vị và lao động tham gia BHXH: Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 337 đơn vị năm 2012 lên 425 đơn vị năm 2016, tương ứng tăng 26,11%. Số lao động tham gia tăng từ 12.383 người năm 2012 lên 17.976 người năm 2016, tăng 45,17%. Điều này cho thấy sự mở rộng đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn huyện.

  2. Kết quả thu BHXH đạt và vượt kế hoạch: Tổng số tiền phải thu BHXH tăng từ khoảng 86 tỷ đồng năm 2012 lên gần 194,5 tỷ đồng năm 2016, tăng 126%. Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu hàng năm luôn đạt trên 96%, thậm chí vượt kế hoạch từ 101% đến 101,4% trong các năm nghiên cứu.

  3. Tỷ lệ nợ đọng BHXH giảm dần: Tỷ lệ nợ đọng BHXH trên tổng số phải thu giảm từ khoảng 2,29% năm 2014 xuống còn 0,9% năm 2016, cho thấy hiệu quả trong công tác thu và quản lý nợ BHXH được cải thiện.

  4. Phân bổ thu BHXH theo khối loại hình: Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số thu BHXH, chiếm gần 50% năm 2016, tuy nhiên cũng có tỷ lệ nợ đọng cao nhất. Khối hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể chiếm tỷ trọng thứ hai với mức thu tăng 18% trong giai đoạn. Khối doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước có mức tăng thu lần lượt 22% và giảm nhẹ do cổ phần hóa.

Thảo luận kết quả

Sự tăng trưởng số lượng đơn vị và lao động tham gia BHXH phản ánh hiệu quả trong công tác tuyên truyền, vận động và mở rộng đối tượng tham gia trên địa bàn huyện Kinh Môn. Việc hoàn thành vượt kế hoạch thu BHXH hàng năm cho thấy sự nỗ lực của cơ quan BHXH huyện trong tổ chức, quản lý và kiểm tra thu nộp BHXH. Tỷ lệ nợ đọng giảm dần minh chứng cho việc tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong công tác thu BHXH.

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ đọng cao ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho thấy vẫn còn tồn tại các khó khăn như nhận thức chưa đầy đủ về pháp luật BHXH, tình trạng trốn đóng, chậm đóng BHXH, và sự biến động lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. So với các nghiên cứu trong ngành, kết quả này phù hợp với xu hướng chung của các địa phương có nền kinh tế đa dạng, trong đó khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhưng khó kiểm soát hơn.

Việc phân tích chi tiết theo khối loại hình giúp xác định nhóm đối tượng cần tập trung quản lý và hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu quả thu BHXH. Các biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng số lượng đơn vị, lao