I. Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Dân Tộc Tổng Quan Giá Trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là kết quả của sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc, đặc biệt là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Trong khi Mác và Ăng-ghen xem vấn đề dân tộc là thứ yếu và hệ quả của vấn đề giai cấp, Lênin đã phát triển nó thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin nhấn mạnh rằng cách mạng vô sản ở chính quốc không thể thành công nếu không có sự liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Tư tưởng này đã đặt nền móng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đặc biệt ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển những tư tưởng này phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Quan điểm của Người về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc mang ý nghĩa lịch sử to lớn, là kim chỉ nam cho con đường cách mạng Việt Nam.
1.1. Đặc Điểm Nổi Bật Của Vấn Đề Dân Tộc Thuộc Địa
Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa được Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người. Người vạch trần bộ mặt thật của chủ nghĩa thực dân, chỉ ra sự bất bình đẳng và áp bức mà các dân tộc thuộc địa phải gánh chịu. Người nhấn mạnh rằng “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng…”. Chính vì vậy, việc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp bách, tiên quyết để giành lấy độc lập, tự do, và hạnh phúc cho nhân dân.
1.2. Độc Lập Dân Tộc Nội Dung Cốt Lõi Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của mỗi dân tộc. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng độc lập phải là độc lập thật sự, hoàn toàn, gắn liền với hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và đem lại cơm no áo ấm cho mọi người dân. Sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình đã đánh dấu một mốc son lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn thể hiện ý chí sắt đá của toàn dân tộc Việt Nam quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
1.3. Chủ Nghĩa Yêu Nước Chân Chính Động Lực Của Dân Tộc
Trong bài Đông Dương, ký tên Nguyễn Ái Quốc năm 1921, Hồ Chí Minh đã viết: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”. Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Đây không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa yêu nước chân chính là nền tảng tinh thần, là sức mạnh to lớn để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách và giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
II. Mối Quan Hệ Biện Chứng Dân Tộc và Giai Cấp Theo HCM
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Đồng thời, phải giữ vững độc lập dân tộc của mình, tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. Tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản (1924), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”. Quan điểm này thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
2.1. Giải Phóng Dân Tộc Nhiệm Vụ Quan Trọng Hàng Đầu
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc thì toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Người khẳng định: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”. Vì vậy, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nơi mọi người dân được hưởng ấm no, tự do, hạnh phúc.
2.2. Độc Lập Dân Tộc Gắn Liền Với Chủ Nghĩa Xã Hội
Hồ Chí Minh luôn khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu của dân tộc Việt Nam. Người cho rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo độc lập dân tộc thực sự, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân tộc. Đây là sự bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường phát triển của các dân tộc thuộc địa.
2.3. Tôn Trọng Độc Lập Chủ Quyền Của Các Dân Tộc
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, tôn trọng độc lập chủ quyền của các dân tộc khác. Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”; “giúp bạn là tự giúp mình”. Tư tưởng này thể hiện sự nhất quán giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, góp phần củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
III. Tính Chất và Mục Tiêu của Cách Mạng Giải Phóng Theo HCM
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa thực dân. Điều này quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở các nước thuộc địa là giải phóng dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, lực lượng của cách mạng là toàn dân tộc, cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước.
3.1. Con Đường Cách Mạng Vô Sản Lựa Chọn Tất Yếu
Thực tiễn Việt Nam và sự khảo sát các phong trào cách mạng thế giới đã giúp Hồ Chí Minh khẳng định rằng chỉ có con đường cách mạng vô sản mới có thể đem lại độc lập, tự do thực sự cho dân tộc. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản trước đó đều thất bại, chứng tỏ con đường này không phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Con đường cách mạng vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là con đường duy nhất có thể giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân.
3.2. Vai Trò Lãnh Đạo Của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Người khẳng định: “Muốn làm cách mệnh, trước phải làm cho dân giác ngộ… phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu… Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Đảng Cộng sản Việt Nam, với hệ tư tưởng Mác-Lênin, là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
3.3. Sức Mạnh Toàn Dân Yếu Tố Quyết Định Thắng Lợi
Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Người chỉ rõ: “Công nông là gốc cách mệnh”, “Công nông là người chủ cách mệnh”. Những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng tức là động lực cách mạng. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc nằm ở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó liên minh công - nông - trí thức đóng vai trò nòng cốt.
IV. Phương Pháp Đấu Tranh Giải Phóng Dân Tộc Tư Tưởng HCM
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết, bình đẳng, không lệ thuộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”. Người đã so sánh chủ nghĩa tư bản với hình ảnh con đỉa có hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Để giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi.
4.1. Tính Chủ Động và Sáng Tạo Trong Cách Mạng
Hồ Chí Minh luôn đề cao tính chủ động, sáng tạo trong cách mạng. Người cho rằng không thể rập khuôn, máy móc kinh nghiệm của nước khác mà phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường cách mạng của các nước thuộc địa, khẳng định khả năng cách mạng thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước.
4.2. Bạo Lực Cách Mạng Con Đường Tất Yếu Để Giải Phóng
Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực. Người nói: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh với kẻ yếu rồi”. Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng.
4.3. Trường Kỳ Kháng Chiến và Tự Lực Cánh Sinh
Hồ Chí Minh chủ trương trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh. Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong diễn văn đọc trong “Ngày kháng chiến toàn quốc” ngày 5/11/1945, Hồ Chí Minh nói: “Dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam… thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến”.
V. Giá Trị và Ý Nghĩa Tư Tưởng HCM Về Dân Tộc Hiện Nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có giá trị và ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nó là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhà nước ta trong việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nội sinh, giữ vững độc lập chủ quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Tư tưởng này cũng có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
5.1. Phát Huy Sức Mạnh Đại Đoàn Kết Toàn Dân Tộc
Trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc có ý nghĩa then chốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước. Cần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức, phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
5.2. Giữ Vững Độc Lập Chủ Quyền và Toàn Vẹn Lãnh Thổ
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, việc giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc. Cần tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng an ninh, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
5.3. Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền XHCN Của Dân Do Dân Vì Dân
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
VI. Kết Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh Di Sản Vô Giá
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là một di sản vô giá, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Nó không chỉ là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Việc nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam.
6.1. Tiếp Tục Nghiên Cứu Sâu Sắc Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Việc nghiên cứu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, là nhiệm vụ quan trọng để nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cần đổi mới phương pháp nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng của Người thấm sâu vào đời sống xã hội.
6.2. Vận Dụng Sáng Tạo Tư Tưởng Hồ Chí Minh Vào Thực Tiễn
Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đòi hỏi sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Cần cụ thể hóa tư tưởng của Người thành các chủ trương, chính sách, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển đất nước.
6.3. Bảo Vệ và Phát Triển Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Trong bối cảnh hiện nay, cần kiên quyết đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cần không ngừng bổ sung, phát triển tư tưởng của Người cho phù hợp với yêu cầu của thời đại mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh, văn minh.