Tổng quan nghiên cứu
Thừa cân và béo phì (TC, BP) ở trẻ em đang trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng trên toàn cầu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2016, có hơn 1,9 tỷ người trưởng thành bị thừa cân, trong đó hơn 650 triệu người bị béo phì. Ước tính có khoảng 39 triệu trẻ em dưới 5 tuổi và 340 triệu trẻ em từ 5 đến 19 tuổi bị TC, BP. Tại Việt Nam, tỷ lệ TC, BP ở trẻ em dưới 5 tuổi có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Thái Nguyên. Báo cáo của Viện Dinh dưỡng năm 2010 cho thấy tỷ lệ TC, BP ở trẻ dưới 5 tuổi là 5,6%, vượt mức khống chế 5% theo Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-2010.
Nghiên cứu này tập trung khảo sát thực trạng TC, BP và các yếu tố liên quan ở trẻ em từ 24 đến 72 tháng tuổi tại các trường mầm non trên địa bàn thành phố Thái Nguyên trong năm 2021. Mục tiêu chính là xác định tỷ lệ TC, BP và phân tích các yếu tố nhân khẩu học, thói quen ăn uống, vận động, cũng như các yếu tố gia đình ảnh hưởng đến tình trạng này. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp dữ liệu cập nhật, hỗ trợ xây dựng các chính sách phòng chống TC, BP phù hợp, góp phần nâng cao sức khỏe thể chất và trí tuệ của thế hệ tương lai tại khu vực đô thị đang phát triển nhanh như Thái Nguyên.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình sau:
- Lý thuyết cân bằng năng lượng: TC, BP xuất hiện do mất cân bằng giữa năng lượng cung cấp và năng lượng tiêu hao, dẫn đến tích tụ mỡ thừa trong cơ thể.
- Mô hình sinh lý bệnh học béo phì: Vai trò của các hormone như leptin, insulin, glucagon và các yếu tố thần kinh trung ương trong điều hòa thể trọng và sự phát triển béo phì.
- Khái niệm chỉ số khối cơ thể (BMI) và Z-score: BMI được sử dụng để đánh giá TC, BP ở người lớn, trong khi Z-score cân nặng/chiều cao và BMI theo tuổi và giới được áp dụng cho trẻ em dưới 5 tuổi và từ 5 đến 9 tuổi.
- Các yếu tố liên quan đến TC, BP: bao gồm yếu tố di truyền, dinh dưỡng, thói quen vận động, môi trường gia đình và xã hội.
Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
- Đối tượng nghiên cứu: 1203 trẻ em từ 24 đến 72 tháng tuổi đang học tại 5 trường mầm non trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, cùng cha/mẹ hoặc người chăm sóc trẻ.
- Chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu chùm, gồm 5 trường mầm non (2 trường nội thành, 2 trường ngoại thành và 1 trường tư thục), chọn ngẫu nhiên 2 lớp ở mỗi nhóm tuổi (24-36, 37-48, 49-60, 61-72 tháng) và lấy toàn bộ trẻ trong các lớp được chọn.
- Thu thập dữ liệu: Đo chiều cao bằng thước Microtoise (độ chính xác 1mm), cân nặng bằng cân đồng hồ Nhơn Hòa (độ chính xác 0,1kg), phỏng vấn cha/mẹ hoặc người chăm sóc bằng bộ câu hỏi chuẩn hóa.
- Phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm WHO Anthro và Anthro Plus để đánh giá tình trạng TC, BP theo Z-score; phần mềm SPSS 20.0 để phân tích thống kê mô tả và kiểm định mối liên quan giữa TC, BP và các yếu tố liên quan bằng kiểm định Khi bình phương, tỷ số chênh (OR) với khoảng tin cậy 95%.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2021 đến tháng 2/2022.
- Khía cạnh đạo đức: Nghiên cứu được phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức nghiên cứu y sinh của Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Tỷ lệ thừa cân, béo phì chung: Tỷ lệ TC, BP ở trẻ 24-72 tháng tuổi tại các trường mầm non thành phố Thái Nguyên là 15,4%, trong đó thừa cân chiếm 8,1% và béo phì chiếm 7,3%.
Phân bố theo trường học: Trường mầm non 19/5 có tỷ lệ thừa cân cao nhất (11,3%), trường mầm non Hoa Trạng Nguyên có tỷ lệ béo phì cao nhất (16,9%), trong khi trường mầm non Thịnh Đức có tỷ lệ TC, BP thấp nhất (0,7%).
Phân bố theo độ tuổi: Tỷ lệ TC, BP tăng dần theo tuổi, cao nhất ở nhóm 61-72 tháng (5,9%) và thấp nhất ở nhóm 24-36 tháng (2,5%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Phân bố theo giới tính: Trẻ nam có tỷ lệ TC, BP cao hơn trẻ nữ (9,1% so với 6,3%), sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05).
Phân bố theo nơi cư trú: Trẻ sống ở khu vực nội thành có tỷ lệ TC, BP cao hơn đáng kể so với ngoại thành (13% so với 2,4%, p<0,001).
Thảo luận kết quả
Tỷ lệ TC, BP 15,4% ở trẻ mầm non tại Thái Nguyên phản ánh xu hướng gia tăng nhanh chóng của vấn đề này tại các đô thị đang phát triển. So với tỷ lệ 12,1% tại Hà Nội năm 2020, kết quả cho thấy mức độ TC, BP tại Thái Nguyên tương đối cao, đặc biệt tại các trường nội thành và trường tư thục, có thể do ảnh hưởng của lối sống đô thị hóa, chế độ ăn nhiều năng lượng và ít vận động.
Sự gia tăng tỷ lệ TC, BP theo độ tuổi phù hợp với các nghiên cứu khác cho thấy nguy cơ tích tụ mỡ thừa tăng dần khi trẻ lớn hơn. Tỷ lệ cao hơn ở trẻ nam có thể liên quan đến thói quen ăn uống và vận động khác biệt giữa hai giới.
Sự khác biệt rõ rệt giữa nội thành và ngoại thành phản ánh tác động của môi trường đô thị với nhiều yếu tố thuận lợi cho TC, BP như tiếp cận thức ăn nhanh, ít không gian vận động, thời gian xem TV và chơi điện tử nhiều hơn.
Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột thể hiện tỷ lệ TC, BP theo từng trường, biểu đồ đường thể hiện xu hướng theo độ tuổi và biểu đồ tròn phân bố theo giới tính, giúp minh họa rõ nét các phát hiện.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường giáo dục dinh dưỡng và vận động cho trẻ mầm non: Triển khai các chương trình giáo dục dinh dưỡng hợp lý, khuyến khích hoạt động thể chất ít nhất 60 phút mỗi ngày, hạn chế thời gian xem TV và chơi điện tử dưới 2 giờ/ngày. Thời gian thực hiện: ngay trong năm học 2023-2024. Chủ thể thực hiện: nhà trường phối hợp với phụ huynh.
Xây dựng môi trường học đường thân thiện với sức khỏe: Tạo không gian vui chơi ngoài trời an toàn, cung cấp thực đơn cân đối dinh dưỡng tại các trường mầm non, hạn chế thức ăn nhanh và đồ uống có đường. Thời gian: trong vòng 2 năm tới. Chủ thể: Ban giám hiệu trường, ngành giáo dục và y tế địa phương.
Tuyên truyền nâng cao nhận thức phụ huynh về phòng chống TC, BP: Tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo về dinh dưỡng, vận động và tác hại của TC, BP cho cha mẹ và người chăm sóc trẻ. Thời gian: định kỳ hàng năm. Chủ thể: Trung tâm y tế dự phòng, trường học.
Theo dõi, đánh giá và can thiệp sớm cho trẻ có nguy cơ TC, BP: Thiết lập hệ thống giám sát sức khỏe định kỳ, phát hiện sớm trẻ thừa cân, béo phì để tư vấn và can thiệp kịp thời. Thời gian: triển khai ngay từ năm học 2023. Chủ thể: cán bộ y tế trường học, nhân viên y tế địa phương.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Nhà quản lý giáo dục và y tế công cộng: Sử dụng dữ liệu để xây dựng chính sách, chương trình phòng chống TC, BP phù hợp với đặc điểm địa phương.
Giáo viên và cán bộ quản lý trường mầm non: Áp dụng kiến thức về dinh dưỡng và vận động để tổ chức môi trường học tập lành mạnh, hỗ trợ phát triển thể chất trẻ.
Phụ huynh và người chăm sóc trẻ: Nắm bắt thông tin về các yếu tố nguy cơ và biện pháp phòng tránh TC, BP, từ đó điều chỉnh thói quen ăn uống và vận động cho con em.
Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế, dinh dưỡng, nhi khoa: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, kết quả và phân tích để phát triển các nghiên cứu tiếp theo về TC, BP ở trẻ em.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em lại tăng nhanh tại các thành phố lớn?
Do sự thay đổi lối sống đô thị hóa, trẻ tiếp cận nhiều thức ăn nhanh, ít vận động, thời gian xem TV và chơi điện tử tăng, không gian vui chơi ngoài trời bị thu hẹp.Chỉ số nào được sử dụng để đánh giá thừa cân, béo phì ở trẻ em?
Trẻ dưới 5 tuổi được đánh giá bằng Z-score cân nặng/chiều cao, trẻ từ 5 đến 9 tuổi dùng Z-score BMI theo tuổi và giới, theo chuẩn WHO.Yếu tố gia đình ảnh hưởng thế nào đến tình trạng thừa cân, béo phì của trẻ?
Cha mẹ thừa cân, béo phì làm tăng nguy cơ tương tự ở trẻ do yếu tố di truyền và thói quen ăn uống, vận động trong gia đình.Làm thế nào để phòng ngừa thừa cân, béo phì ở trẻ mầm non?
Cân bằng dinh dưỡng, tăng cường vận động thể chất, hạn chế đồ ăn nhanh, đồ uống có đường, giảm thời gian sử dụng thiết bị điện tử và ngủ đủ giấc.Tại sao trẻ nam có tỷ lệ thừa cân, béo phì cao hơn trẻ nữ?
Có thể do khác biệt về thói quen ăn uống, vận động và sự quan tâm về vóc dáng giữa hai giới, trẻ nam thường ít được chú ý về cân nặng hơn trẻ nữ.
Kết luận
- Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ 24-72 tháng tại các trường mầm non thành phố Thái Nguyên là 15,4%, trong đó thừa cân 8,1% và béo phì 7,3%.
- Tỷ lệ TC, BP cao hơn ở trẻ nam, trẻ lớn tuổi và trẻ sống ở khu vực nội thành.
- Các yếu tố liên quan bao gồm thói quen ăn uống, vận động, cân nặng sơ sinh và tình trạng thừa cân, béo phì của cha mẹ.
- Cần triển khai các giải pháp giáo dục dinh dưỡng, vận động, nâng cao nhận thức phụ huynh và giám sát sức khỏe trẻ định kỳ.
- Nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho các chính sách phòng chống TC, BP ở trẻ em tại các đô thị đang phát triển như Thái Nguyên.
Hành động tiếp theo: Các cơ quan chức năng và nhà trường cần phối hợp triển khai các chương trình can thiệp sớm, đồng thời tiếp tục nghiên cứu mở rộng để theo dõi xu hướng TC, BP và hiệu quả các biện pháp phòng chống. Để biết thêm chi tiết và ứng dụng thực tiễn, quý độc giả và chuyên gia có thể liên hệ với Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên.