I. Tổng Quan Về Thực Trạng Sinh Con Tại Nhà ở Kỳ Sơn
Nghệ An, một tỉnh miền núi, vẫn còn tồn tại thực trạng sinh con tại nhà ở các bà mẹ dân tộc thiểu số. Điều này gây ra nhiều lo ngại về sinh nở không an toàn và ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Các can thiệp nâng cao sức khỏe, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong cho phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là các ưu tiên bảo đảm cuộc đẻ an toàn đã được triển khai nhiều năm nay và đã đạt được nhiều thành công rõ rệt. Theo số liệu báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em năm 2011, tỷ lệ quản lý thai trong toàn quốc đạt tới 92,2%; tỷ lệ phụ nữ sinh con có cán bộ đã được đào tạo hỗ trợ khi đẻ đạt 97,4% và 92,6% số bà mẹ được chăm sóc sau sinh. Tuy nhiên không phải tất cả các phụ nữ trong nước ta đều được hưởng những thành quả về chăm sóc sức khỏe như nhau.
1.1. Tầm Quan Trọng Của Chăm Sóc Sức Khỏe Sinh Sản
Chăm sóc sức khỏe sinh sản là yếu tố then chốt để giảm tỷ lệ tử vong mẹ và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Các chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cần được đẩy mạnh để nâng cao nhận thức của bà mẹ dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của việc khám thai và sinh tại cơ sở y tế. Kỳ Sơn là một huyện miền núi nghèo của Nghệ An, các hoạt động y tế trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản còn gặp nhiều khó khăn. Rất nhiều bà mẹ dân tộc thiểu số không được chăm sóc thai nghén, khi sinh đẻ và sau đẻ. Theo báo cáo 6 tháng đầu năm 2012 của Trung tâm y tế huyện Kỳ Sơn, chỉ có 50% phụ nữ có thai đi khám thai đủ 3 lần, số ca đẻ tại nhà chiếm hơn 40%.
1.2. Vị Trí Kỳ Sơn Nghệ An và Các Đặc Điểm Địa Lý
Kỳ Sơn là một huyện miền núi, nơi khó khăn trong tiếp cận y tế là một thách thức lớn. Điều kiện kinh tế khó khăn, vấn đề ngôn ngữ, và bất bình đẳng giới cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng sinh sản của bà mẹ dân tộc thiểu số. Huyện Kỳ Sơn của Nghệ An, các hoạt động y tế trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản còn gặp nhiều khó khăn. Rất nhiều bà mẹ dân tộc thiểu số không được chăm sóc thai nghén, khi sinh đẻ và sau đẻ. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến sinh con tại nhà của bà mẹ dân tộc thiểu số ở ba xã, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An năm 2012”.
II. Vì Sao Bà Mẹ Dân Tộc Thiểu Số Ở Kỳ Sơn Sinh Tại Nhà
Nhiều yếu tố góp phần vào thực trạng sinh con tại nhà, bao gồm tập tục sinh con lâu đời, quan niệm về sinh đẻ truyền thống, và thiếu kiến thức về sinh sản. Bên cạnh đó, sự thiếu thốn về điều kiện kinh tế và khó khăn trong tiếp cận y tế cũng là những rào cản lớn. Tỷ lệ sinh con tại nhà vẫn còn rất cao từ 30% đến hơn 95% trong các nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2005. Nghiên cứu năm 2002 của Trần Thị Trung Chiến, Trịnh Hữu Vách về sinh đẻ và chết chu sinh ở 7 tỉnh, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà là 20,5%. Ở các tỉnh miền núi, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà là rất cao như Gia Lai (65,2%), Yên bái (38,6%), trong khi tỷ lệ sinh con tại nhà của các tỉnh đồng bằng lại rất thấp, hầu như không đáng kể như Thái Bình (2,9%), còn khoảng 0,2% các bà mẹ sinh con trên rừng, trên nương rẫy hoặc trên đường đến cơ sở y tế.
2.1. Ảnh Hưởng Của Phong Tục Tập Quán Sinh Con
Phong tục tập quán sinh con có vai trò quan trọng trong quyết định nơi sinh con của bà mẹ dân tộc thiểu số. Các người đỡ đẻ truyền thống vẫn có ảnh hưởng lớn, và nhiều gia đình tin rằng sinh con tại nhà là cách an toàn và tự nhiên nhất. Hầu hết các bà mẹ đều có dự định đẻ tại bệnh viện và họ cho rằng không nên thay đổi quyết định này ngay cả khi họ có thể đẻ tại nhà. Thực trạng về vấn đề sinh con tại nhà cũng đã được cải thiện ở nhiều nước, trước năm 1965, 2/3 các ca sinh tại Hà Lan là ở nhà, trong 25 năm tiếp theo thì tình hình đã đảo ngược, theo nghiên cứu này thì do sự đầu tư về chăm sóc thai sản ở các bệnh viện đã dẫn tới sự thay đổi.
2.2. Rào Cản Về Tiếp Cận Y Tế Vùng Cao
Khoảng cách xa xôi, địa hình hiểm trở và giao thông khó khăn là những rào cản lớn trong tiếp cận y tế vùng cao. Điều này khiến nhiều bà mẹ dân tộc thiểu số không thể đến cơ sở y tế để khám thai và sinh con, dẫn đến việc sinh tại nhà. Tóm lại các kết quả nghiên cứu đều phản ánh sự cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách để bà mẹ nông thôn, dân tộc thiểu số, hay di cư để có thể dễ dàng tiếp cận với các cơ sở y tế, hoặc nếu sinh con tại nhà thì cần hỗ trợ tối đa để hạn chế các trường hợp tử vong mẹ và con. Nghiên cứu năm 2002 của N.Ishikawa, Ksimon tại một trại tị nạn ở Karen- Thái Lan thấy rằng, trên 50% sản phụ đẻ tại nhà, có 89 phụ nữ được khám thai và tư vấn tại bệnh viện nhưng chỉ có 27 người (30%) đẻ tại bệnh viện, số còn lại 62 người (70%) đẻ tại nhà.
2.3. Thiếu Kiến Thức Về Chăm Sóc Thai Sản
Nhiều bà mẹ không nhận thức được tầm quan trọng của việc khám thai, tiêm phòng và sinh nở tại các cơ sở y tế. Họ thiếu thông tin về những nguy hiểm tiềm ẩn khi sinh tại nhà như băng huyết, nhiễm trùng hậu sản. Do thiếu hiểu biết nên không có các biện pháp phòng ngừa, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm thậm chí gây tử vong cho cả mẹ và bé.
III. Hậu Quả Nguy Hiểm Của Sinh Con Tại Nhà Ở Kỳ Sơn
Sinh con tại nhà có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, bao gồm tỷ lệ tử vong mẹ và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao hơn, biến chứng thai sản, và nguy cơ nhiễm trùng hậu sản. Việc thiếu chăm sóc y tế kịp thời có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và con. Trong năm 2012, toàn huyện cũng đã có 3 ca băng huyết, 1 ca nhiễm trùng sau đẻ và 7 ca tử vong sơ sinh mà nguyên nhân là do sinh con tại nhà khi đưa đến bệnh viện thì đã quá muộn.
3.1. Tăng Cao Tỷ Lệ Tử Vong Mẹ Và Trẻ Sơ Sinh
Sinh con tại nhà làm tăng nguy cơ tử vong cho cả bà mẹ và trẻ sơ sinh do thiếu các biện pháp can thiệp y tế kịp thời trong trường hợp khẩn cấp. Các ca cấp cứu sản khoa không được xử lý nhanh chóng, gây nguy hiểm đến tính mạng. Vì vậy sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng của đồng bào dân tộc đã được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên thực trạng hiện nay về sức khỏe sinh sản của người dân tộc ít người vẫn còn nhiều vấn đề, đặc biệt là tập tục sinh con tại nhà, cho rằng sinh con tại nhà tốt hơn và là sự lựa chọn đầu tiên của họ.
3.2. Nguy Cơ Biến Chứng Thai Sản Và Nhiễm Trùng
Các biến chứng thai sản như sản giật, băng huyết sau sinh, và nhiễm trùng hậu sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong quá trình sinh con. Việc không có sự hỗ trợ của cán bộ y tế có chuyên môn khiến các biến chứng này không được phát hiện và xử lý kịp thời, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Tỷ lệ sinh con tại nhà vẫn còn rất cao từ 30% đến hơn 95% trong các nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2005. Nghiên cứu của Bùi Thị Tú Quyên (2002) ở huyện Đăkrông và Hướng Hóa, Quảng Trị cho kết quả có 56,5% sinh con tại nhà, mà chủ yếu là do bà mẹ tự đỡ (54%), người nhà và hàng xóm đỡ (28,3%); cán bộ y tế đỡ đạt tỷ lệ thấp (17,7%).
IV. Giải Pháp Nâng Cao Tiếp Cận Y Tế Cho Dân Tộc Thiểu Số
Để cải thiện thực trạng sinh con tại nhà, cần tăng cường tiếp cận y tế cho bà mẹ dân tộc thiểu số. Điều này bao gồm việc mở rộng mạng lưới y tế thôn bản, đào tạo vai trò của y tế thôn bản, tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe, và cung cấp chính sách hỗ trợ về chi phí đi lại và sinh nở. Qua đó, tôi xin đưa ra một số khuyến nghị tới Sở Y tế cần đào tạo thêm Cô đỡ thôn bản, cung cấp thêm gói đẻ sạch, có hướng dẫn cụ thể về tư thế sinh con của bà mẹ dân tộc thiểu số tại địa phương; Trung tâm Y tế huyện cùng với các Trạm Y tế chú trọng vận động các bà mẹ dân tộc H‟mông, Khơ Mú mà nơi sống của họ có tập tục sinh con tại nhà.
4.1. Tăng Cường Vai Trò Của Y Tế Thôn Bản
Y tế thôn bản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho bà mẹ dân tộc thiểu số. Cần đào tạo và trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng cho y tế thôn bản để họ có thể tư vấn, thăm khám và hỗ trợ sinh sản tại cộng đồng. Tỷ lệ sinh con tại nhà vẫn còn rất cao từ 30% đến hơn 95% trong các nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2005 [41]. Nghiên cứu năm 2002 của Trần Thị Trung Chiến, Trịnh Hữu Vách về sinh đẻ và chết chu sinh ở 7 tỉnh, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà là 20,5%.
4.2. Đẩy Mạnh Truyền Thông Giáo Dục Sức Khỏe
Truyền thông giáo dục sức khỏe cần được thực hiện một cách thường xuyên và hiệu quả, sử dụng các hình thức phù hợp với văn hóa và ngôn ngữ của bà mẹ dân tộc thiểu số. Nội dung cần tập trung vào tầm quan trọng của việc khám thai, sinh tại cơ sở y tế, và các biện pháp phòng tránh biến chứng thai sản. So sánh kết quả của 2 điều tra quốc gia về tử vong mẹ của Bộ Y tế cho thấy, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm từ 165/100.000 trẻ đẻ sống từ năm 2001 – 2002 xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2006 – 2007.
4.3. Các Chính Sách Hỗ Trợ Cho Bà Mẹ
Nhà nước và các tổ chức cần có các chính sách hỗ trợ phù hợp để giúp các bà mẹ dân tộc thiểu số được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Cần có các chính sách bảo hiểm y tế, hỗ trợ chi phí đi lại, hỗ trợ chỗ ở cho các bà mẹ khi đến các cơ sở y tế để sinh nở.
V. Nghiên Cứu Về Thực Trạng Sinh Con Tại Nhà ở Kỳ Sơn
Một nghiên cứu đã được thực hiện tại Kỳ Sơn để đánh giá thực trạng sinh con tại nhà và xác định các yếu tố liên quan. Kết quả cho thấy tỷ lệ sinh tại nhà vẫn còn cao, và có sự liên quan giữa sinh tại nhà với điều kiện kinh tế, trình độ học vấn, và tập tục sinh con của bà mẹ dân tộc thiểu số. Có 57,7% bà mẹ sinh con tại nhà, cán bộ y tế hỗ trợ chiếm tỷ lệ thấp (5,9%), đặc biệt có tới 18,9% bà mẹ là tự đỡ đẻ. Thực hành chăm sóc trẻ sơ sinh còn chưa tốt, tỷ lệ dùng cật nứa (42%), kéo thông thường (42,6%) để cắt rốn cho con, tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ sau sinh chỉ chiếm 47,9%. Nghiên cứu cũng cho thấy trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế gia đình bà mẹ có liên quan đến sinh con tại nhà.
5.1. Phương Pháp Nghiên Cứu Đối Tượng Tham Gia
Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng và định tính, khảo sát trên một nhóm bà mẹ dân tộc thiểu số tại Kỳ Sơn. Các yếu tố như kinh tế, học vấn, tập tục, và tiếp cận y tế được xem xét để tìm hiểu mối liên quan với sinh con tại nhà. Nhóm dân tộc H‟mông và Khơ mú cùng với tập quán từ lâu đời về nơi sinh là các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh con tại nhà và sinh con tại nhà không có sự hỗ trợ của người đỡ đẻ có chuyên môn. Toàn bộ 293 bà mẹ sinh con trong năm 2012 tại 3 xã được đưa vào nghiên cứu bằng thiết kế mô tả cắt ngang có phân tích.
5.2. Kết Quả Nghiên Cứu Phân Tích Số Liệu
Phân tích số liệu cho thấy tỷ lệ sinh tại nhà cao nhất ở các bà mẹ có điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp, và tuân thủ tập tục sinh con truyền thống. Việc tiếp cận y tế hạn chế cũng là một yếu tố quan trọng. Nghiên cứu cũng cho thấy trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế gia đình bà mẹ có liên quan đến sinh con tại nhà. Nhóm dân tộc H‟mông và Khơ mú cùng với tập quán từ lâu đời về nơi sinh là các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh con tại nhà và sinh con tại nhà không có sự hỗ trợ của người đỡ đẻ có chuyên môn.
VI. Tương Lai Của Chăm Sóc Sinh Sản Cho Dân Tộc Thiểu Số
Để đảm bảo chăm sóc sinh sản tốt hơn cho bà mẹ dân tộc thiểu số, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, đoàn thể, và cộng đồng. Cần tiếp tục đầu tư vào y tế thôn bản, đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khỏe, và tạo điều kiện thuận lợi để bà mẹ có thể tiếp cận y tế một cách dễ dàng. Nghiên cứu năm 2002 của Trần Thị Trung Chiến, Trịnh Hữu Vách về sinh đẻ và chết chu sinh ở 7 tỉnh, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà là 20,5%. Ở các tỉnh miền núi, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà là rất cao như Gia Lai (65,2%), Yên bái (38,6%), trong khi tỷ lệ sinh con tại nhà của các tỉnh đồng bằng lại rất thấp, hầu như không đáng kể như Thái Bình (2,9%), còn khoảng 0,2% các bà mẹ sinh con trên rừng, trên nương rẫy hoặc trên đường đến cơ sở y tế.
6.1. Định Hướng Phát Triển Y Tế Vùng Cao Bền Vững
Xây dựng hệ thống y tế vùng cao vững mạnh, có khả năng đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bà mẹ dân tộc thiểu số. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực y tế, trang bị cơ sở vật chất, và cung cấp dịch vụ chăm sóc sinh sản chất lượng. Kết quả của các can thiệp được bao phủ trên diện rộng như vậy đã góp phần quyết định trong việc giảm tử vong mẹ một cách rõ rệt. So sánh kết quả của 2 điều tra quốc gia về tử vong mẹ của Bộ Y tế cho thấy, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm từ 165/100.000 trẻ đẻ sống từ năm 2001 – 2002 xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2006 – 2007.
6.2. Sự Tham Gia Của Cộng Đồng Trong Chăm Sóc Sức Khỏe
Khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đồng trong việc nâng cao nhận thức về sức khỏe và thúc đẩy hành vi sinh sản an toàn. Tạo điều kiện để bà mẹ dân tộc thiểu số chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau, và tham gia vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng. Sáng kiến LMAT đã được hơn 100 quốc gia, trong đó có nước ta và các tổ chức quốc tế chọn làm chương trình hành động. Nhiều chương trình can thiệp đã được thực hiện nhằm tăng cường chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh và đã từng bước đạt được nhiều kết quả mong muốn.