Tổng quan nghiên cứu

Việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các dự án kinh tế lớn đang là vấn đề cấp thiết tại nhiều địa phương, trong đó có Khu kinh tế (KKT) Đông Nam, Nghệ An. Với tổng diện tích quy hoạch 18.826,47 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm tới 71,05%, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của khoảng 83,6% dân cư trong khu vực. Nghiên cứu này tập trung khảo sát 65 hộ dân bị thu hồi đất tại hai xã Diễn An và Nghi Xá, nhằm đánh giá tác động của việc thu hồi đất đến sinh kế của người dân, đồng thời đề xuất các giải pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và đảm bảo sinh kế bền vững.

Mục tiêu nghiên cứu gồm: (1) phân tích sự thay đổi sinh kế của người dân sau khi mất đất nông nghiệp; (2) đánh giá hiệu quả các chính sách hỗ trợ chuyển đổi việc làm; (3) đề xuất các giải pháp nâng cao sinh kế bền vững cho người dân bị thu hồi đất. Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại KKT Đông Nam trong giai đoạn từ năm 2004 đến 2012. Ý nghĩa nghiên cứu thể hiện qua việc cung cấp dữ liệu thực tiễn và cơ sở khoa học cho các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giảm thiểu rủi ro và bất ổn xã hội do thu hồi đất gây ra.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên khung phân tích sinh kế bền vững của DFID (1999), trong đó sinh kế được hiểu là tập hợp các khả năng, tài sản và hoạt động cần thiết để kiếm sống. Khung này phân loại tài sản sinh kế thành năm loại chính: nguồn vốn con người (kỹ năng, sức khỏe, giáo dục), nguồn vốn tự nhiên (đất đai, tài nguyên thiên nhiên), nguồn vốn tài chính (tiền mặt, tài sản có giá trị), nguồn vốn vật chất (cơ sở hạ tầng, trang thiết bị) và nguồn vốn xã hội (mạng lưới quan hệ, hỗ trợ cộng đồng). Sinh kế bền vững được định nghĩa là khả năng đối phó và phục hồi trước các cú sốc, duy trì và phát triển các nguồn lực mà không làm suy thoái môi trường.

Ngoài ra, nghiên cứu còn dựa trên các văn bản pháp luật liên quan đến thu hồi đất và bồi thường như Luật Đất đai 2003, Nghị định 69/2009/NĐ-CP, Quyết định 85/2007/QĐ-TTg về thành lập KKT Đông Nam, cùng các chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Các khái niệm về thu hồi đất, bồi thường và chuyển đổi nghề nghiệp được làm rõ để phân tích tác động và hiệu quả chính sách.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính kết hợp thống kê mô tả và phân tích so sánh dựa trên số liệu sơ cấp và thứ cấp. Số liệu sơ cấp được thu thập qua phỏng vấn sâu 65 hộ dân bị thu hồi đất tại hai xã Diễn An và Nghi Xá, với cỡ mẫu được chọn theo phương pháp phân tầng kết hợp chọn mẫu hệ thống, đảm bảo tính đại diện. Ngoài ra, phỏng vấn các chuyên gia, cán bộ quản lý địa phương và các cơ quan liên quan cũng được thực hiện để bổ sung thông tin.

Số liệu thứ cấp được thu thập từ Cục Thống kê Nghệ An, Ban quản lý KKT Đông Nam, các văn bản pháp luật và báo cáo ngành. Phân tích dữ liệu sử dụng phần mềm Microsoft Excel để tổng hợp, thống kê mô tả và so sánh các chỉ tiêu về diện tích đất, thu nhập, trình độ lao động, sử dụng tiền bồi thường và các thay đổi trong sinh kế. Timeline nghiên cứu kéo dài từ năm 2004 đến 2012, tập trung vào giai đoạn thu hồi đất và chuyển đổi sinh kế.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Giảm diện tích đất nông nghiệp và chuyển đổi nguồn vốn tự nhiên sang tài chính: Diện tích đất nông nghiệp bình quân của các hộ giảm 64%, từ 2.600 m² xuống còn khoảng 935 m²/hộ. Nhóm bị thu hồi 100% đất (Nhóm 1) mất toàn bộ diện tích với 45.630 m². Tiền bồi thường trung bình mỗi hộ là 47,39 triệu đồng, chủ yếu được dùng để xây nhà và mua sắm vật dụng, chỉ khoảng 16,5% được đầu tư cho giáo dục và học nghề.

  2. Nguồn vốn con người chưa được nâng cao đáng kể: Trình độ học vấn của chủ hộ chủ yếu ở mức phổ thông cơ sở và trung học (96,9%), tuổi trung bình 51,6 tuổi. Chỉ 12,3% hộ đầu tư cho học nghề, phần lớn không có kỹ năng nghề mới, dẫn đến khó khăn trong chuyển đổi việc làm. Lao động chính chủ yếu làm nông nghiệp trước thu hồi đất (98%), sau thu hồi chuyển sang làm thuê không ổn định (37 người) hoặc công nhân (27 người).

  3. Tăng vốn vật chất nhưng không bền vững: 28/65 hộ đã xây nhà kiên cố, nhiều hộ mua xe máy, ti vi, tủ lạnh. Tuy nhiên, đầu tư vào tài sản sản xuất nông nghiệp giảm mạnh, chỉ 1 hộ tăng tài sản sản xuất. Vốn vật chất tăng nhưng mang tính thời điểm, chưa tạo ra sinh kế bền vững.

  4. Nguồn vốn xã hội bị suy giảm: Mất đất sản xuất làm giảm các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, vay mượn, góp công trong sản xuất. Nhiều hộ phải di cư làm thuê ở nơi khác, dẫn đến giảm mối quan hệ xã hội và phát sinh các vấn đề xã hội như tệ nạn, thiếu quản lý con cái.

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy cú sốc mất đất nông nghiệp đã làm thay đổi toàn diện sinh kế của các hộ dân tại KKT Đông Nam. Việc chuyển đổi nguồn vốn tự nhiên sang tài chính không đồng nghĩa với việc nâng cao sinh kế bền vững nếu tiền bồi thường không được đầu tư hiệu quả. Trình độ lao động thấp và tuổi cao là rào cản lớn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp, dẫn đến tình trạng làm thuê không ổn định và thu nhập bấp bênh.

So sánh với các nghiên cứu tại các địa phương khác, như Hội An hay vùng ven đô Hà Nội, cũng cho thấy các vấn đề tương tự về khó khăn trong chuyển đổi nghề nghiệp và hạn chế của chính sách đào tạo nghề. Việc tăng vốn vật chất không đi kèm với nâng cao vốn con người và xã hội làm giảm khả năng phục hồi sinh kế. Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ phân bổ diện tích đất trước và sau thu hồi, biểu đồ sử dụng tiền bồi thường theo mục đích, và bảng so sánh nghề nghiệp trước và sau thu hồi đất.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng lao động: Cần tổ chức các lớp đào tạo nghề phù hợp với đặc điểm lao động địa phương, ưu tiên nhóm tuổi lao động chính (36-60 tuổi). Thời gian thực hiện trong vòng 1-2 năm, do UBND tỉnh và Ban quản lý KKT phối hợp thực hiện.

  2. Hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho sản xuất kinh doanh: Thiết lập các quỹ tín dụng ưu đãi, giảm thiểu thủ tục và không yêu cầu thế chấp tài sản để người dân có thể đầu tư phát triển kinh doanh nhỏ, tạo việc làm ổn định. Thời gian triển khai 1-3 năm, do Ngân hàng chính sách xã hội và chính quyền địa phương đảm nhiệm.

  3. Xây dựng chương trình tư vấn và hỗ trợ quản lý tài chính cá nhân: Giúp người dân sử dụng hiệu quả tiền bồi thường, tránh tiêu xài không bền vững, đồng thời khuyến khích tiết kiệm và đầu tư sinh kế. Thực hiện trong 1 năm, do các tổ chức phi chính phủ và chính quyền địa phương phối hợp.

  4. Phát triển mạng lưới hỗ trợ xã hội và cộng đồng: Tăng cường các hoạt động cộng đồng, hỗ trợ vay vốn nhóm, tạo điều kiện cho người dân duy trì các mối quan hệ xã hội, giảm thiểu di cư và các vấn đề xã hội phát sinh. Thời gian thực hiện liên tục, do UBND xã và các tổ chức cộng đồng đảm nhận.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng và điều chỉnh chính sách bồi thường, hỗ trợ đào tạo nghề và phát triển sinh kế cho người dân bị thu hồi đất.

  2. Các nhà nghiên cứu và học giả trong lĩnh vực chính sách công và phát triển nông thôn: Tham khảo khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu để phát triển các nghiên cứu tiếp theo về sinh kế và chuyển đổi nghề nghiệp.

  3. Tổ chức phi chính phủ và các đơn vị hỗ trợ phát triển cộng đồng: Áp dụng các đề xuất chính sách và giải pháp thực tiễn để thiết kế các chương trình hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi thu hồi đất.

  4. Người dân và cộng đồng tại các khu vực có thu hồi đất: Hiểu rõ tác động của thu hồi đất đến sinh kế, từ đó chủ động xây dựng chiến lược sinh kế phù hợp và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chính sách.

Câu hỏi thường gặp

  1. Việc thu hồi đất ảnh hưởng như thế nào đến sinh kế của người dân?
    Thu hồi đất làm giảm diện tích đất nông nghiệp trung bình 64%, mất phương tiện sản xuất chính, buộc người dân phải chuyển đổi nghề nghiệp hoặc làm thuê không ổn định, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống.

  2. Tiền bồi thường được sử dụng như thế nào?
    Phần lớn tiền bồi thường được dùng để xây nhà (41,5%) và mua sắm vật dụng gia đình, chỉ khoảng 16,5% được đầu tư cho giáo dục và học nghề, dẫn đến khó khăn trong chuyển đổi sinh kế bền vững.

  3. Người dân có được hỗ trợ đào tạo nghề hiệu quả không?
    Hiện nay, tỷ lệ người dân tham gia đào tạo nghề rất thấp do tuổi cao, trình độ thấp và thiếu cơ hội việc làm phù hợp sau đào tạo, khiến chính sách đào tạo chưa phát huy hiệu quả.

  4. Sinh kế của người dân thay đổi ra sao sau thu hồi đất?
    Sinh kế chuyển từ sản xuất nông nghiệp đơn thuần sang làm thuê không ổn định, công nhân, kinh doanh nhỏ lẻ hoặc di cư làm việc ở nơi khác, nhưng thu nhập thường không ổn định và bền vững.

  5. Chính quyền cần làm gì để hỗ trợ người dân?
    Cần tăng cường đào tạo nghề phù hợp, hỗ trợ tiếp cận vốn ưu đãi, tư vấn quản lý tài chính và phát triển mạng lưới xã hội để giúp người dân xây dựng sinh kế bền vững, giảm thiểu rủi ro và bất ổn xã hội.

Kết luận

  • Việc thu hồi đất nông nghiệp tại KKT Đông Nam đã gây ra cú sốc lớn, làm giảm diện tích đất sản xuất trung bình 64% và ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế của người dân.
  • Nguồn vốn con người, đặc biệt là trình độ lao động và kỹ năng nghề, là yếu tố quyết định khả năng thích nghi và chuyển đổi nghề nghiệp sau thu hồi đất.
  • Tiền bồi thường chủ yếu được sử dụng để xây dựng nhà cửa và mua sắm vật chất, chưa được đầu tư hiệu quả cho phát triển sinh kế bền vững.
  • Các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và chuyển đổi việc làm hiện chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của người dân, đặc biệt là nhóm lao động lớn tuổi và trình độ thấp.
  • Đề xuất các giải pháp tập trung vào đào tạo nghề, hỗ trợ vốn, tư vấn tài chính và phát triển mạng lưới xã hội nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân bị thu hồi đất trong vòng 1-3 năm tới.

Hành động tiếp theo: Các cơ quan quản lý và tổ chức liên quan cần phối hợp triển khai các giải pháp đề xuất, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, giám sát và điều chỉnh chính sách để nâng cao hiệu quả hỗ trợ người dân. Để biết thêm chi tiết và ứng dụng thực tiễn, quý độc giả và các bên liên quan có thể tham khảo toàn văn luận văn và liên hệ với Ban quản lý KKT Đông Nam.