Tổng quan nghiên cứu

Cây Bương lông điện biên (Dendrocalamus giganteus) là một trong những loài tre lớn nhất Việt Nam, có chiều cao từ 15 đến 20 mét và đường kính gốc từ 20 đến 25 cm. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến gỗ, thay thế gỗ truyền thống với hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện nay việc nhân giống cây Bương lông điện biên còn nhiều hạn chế, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống và nhân giống bằng gốc, dẫn đến năng suất thấp và khó mở rộng diện tích trồng. Đặc biệt, kỹ thuật nhân giống bằng chiết cành và giâm hom cành chưa được nghiên cứu sâu, gây khó khăn trong việc cung cấp giống chất lượng và số lượng lớn cho sản xuất.

Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định loại chất kích thích và nồng độ thích hợp nhất để tăng khả năng ra rễ của hom Bương lông điện biên, đồng thời đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhân giống hiệu quả bằng hom thân, hom gốc và hom cành chét. Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm khoa học lâm nghiệp vùng trung tâm Bắc Bộ, xã Chân Mộng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ trong khoảng thời gian từ tháng 8/2014 đến tháng 12/2015. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nguồn giống chất lượng, nâng cao năng suất và mở rộng diện tích trồng cây Bương lông điện biên, góp phần phát triển kinh tế nông lâm nghiệp bền vững tại khu vực trung du miền núi phía Bắc.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình về sinh trưởng, phát triển và nhân giống vô tính của cây tre trúc, đặc biệt là các phương pháp nhân giống bằng chiết cành và giâm hom cành. Hai lý thuyết chính được áp dụng gồm:

  • Lý thuyết sinh trưởng và phát triển cây tre trúc: Bao gồm các khái niệm về cây mẹ, cành chét, mắt ngủ triển vọng, và ảnh hưởng của các yếu tố sinh học như tuổi cây, kích thước cành đến khả năng tạo hom và ra rễ.
  • Mô hình nhân giống vô tính bằng chiết cành và giâm hom: Tập trung vào việc sử dụng các chất kích thích sinh trưởng như IBA (β-indol butyric acid) với các nồng độ khác nhau để thúc đẩy quá trình ra rễ, tăng tỷ lệ sống và chất lượng hom giống.

Các khái niệm chính trong nghiên cứu bao gồm: cây mẹ, cành chét, hom cành, mắt ngủ triển vọng, tỷ lệ hom sống, tỷ lệ ra rễ, chiều dài rễ trung bình, và chất lượng hom (tốt, trung bình, xấu).

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp thực nghiệm kết hợp với thu thập và phân tích số liệu thực địa. Cỡ mẫu gồm 90 cây mẹ Bương lông điện biên ở hai độ tuổi 1 và 2 tuổi, mỗi độ tuổi 15 cây, với 3 lần lặp lại cho từng cấp kính thân (8-12 cm, >12-16 cm, >16 cm). Các thí nghiệm được bố trí gồm:

  • Thí nghiệm tạo cành chét bằng phương pháp đốn ngọn và ngả cây mẹ.
  • Thí nghiệm nhân giống bằng chiết cành sử dụng các nồng độ IBA 0,25%; 0,5%; 0,75%; 1% và đối chứng không sử dụng thuốc kích thích.
  • Thí nghiệm giâm hom cành chét với các nồng độ IBA tương tự.

Phương pháp thu thập dữ liệu bao gồm quan sát trực tiếp, đo đếm số lượng cành chét, mắt ngủ, tỷ lệ hom sống, tỷ lệ ra rễ và chiều dài rễ. Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel và SPSS 20.0, sử dụng phân tích phương sai (ANOVA) để đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm và so sánh trung bình các nhóm mẫu theo tiêu chuẩn Duncan.

Thời gian nghiên cứu kéo dài từ tháng 8/2014 đến tháng 12/2015 tại Trung tâm khoa học lâm nghiệp vùng trung tâm Bắc Bộ, xã Chân Mộng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Ảnh hưởng của cấp kính thân cây mẹ đến số lượng cành chét và mắt ngủ triển vọng:

    • Cây mẹ 1 tuổi ở cấp kính 8-12 cm có số cành chét triển vọng cao nhất với 158 cành, trong khi cấp kính >16 cm có số mắt ngủ triển vọng cao nhất với 198 mắt ngủ.
    • Cây mẹ 2 tuổi ở cấp kính 8-12 cm có 175 cành chét triển vọng và cấp kính >16 cm có 186 mắt ngủ triển vọng.
    • Phân tích phương sai cho thấy cấp kính thân ảnh hưởng rõ rệt đến số lượng cành chét (Sig < 0,05), nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến số mắt ngủ.
  2. Chất lượng cây mẹ theo cấp kính:

    • Ở cây mẹ 1 tuổi, cấp kính >12-16 cm có tỷ lệ cây mẹ chất lượng tốt cao nhất (65%), trong khi cấp kính 8-12 cm có tỷ lệ cây xấu cao nhất (15%).
    • Ở cây mẹ 2 tuổi, cấp kính 8-12 cm có tỷ lệ cây mẹ tốt nhất (70%), cấp kính >16 cm có tỷ lệ cây xấu cao nhất (20%).
  3. Kỹ thuật tạo cành chét bằng đốn ngọn và ngả cây:

    • Thí nghiệm ngả cây cho số cành chét tạo ra cao hơn đốn ngọn, với cây mẹ 1 tuổi cấp kính >16 cm tạo được 244 cành chét, cây mẹ 2 tuổi cấp kính 8-12 cm cũng tạo được 244 cành chét.
    • Phân tích phương sai cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa các cấp kính về số lượng cành chét tạo ra (Sig < 0,05).
  4. Ảnh hưởng của nồng độ IBA đến tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ sống của hom cành chét:

    • Sau 60 ngày chiết cành, nồng độ IBA 1% cho tỷ lệ hom ra rễ cao nhất 72,5%, tiếp theo là 0,75% (50%), 0,5% (35%), 0,25% (27,5%) và đối chứng (17,5%).
    • Chiều dài rễ trung bình cao nhất đạt 5,59 cm ở nồng độ 0,5%.
    • Tỷ lệ sống hom chiết sau 3 tháng ở nồng độ IBA 1% đạt 87,5%, cao hơn nhiều so với đối chứng (37,5%).

Thảo luận kết quả

Kết quả nghiên cứu cho thấy cấp kính thân cây mẹ và tuổi cây có ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng tạo cành chét và mắt ngủ triển vọng, phù hợp với các nghiên cứu về sinh trưởng tre trúc khác. Việc áp dụng kỹ thuật ngả cây mẹ giúp tăng số lượng cành chét tạo ra so với đốn ngọn, điều này có thể do ngả cây kích thích mắt ngủ phát triển mạnh hơn.

Sử dụng chất kích thích sinh trưởng IBA với nồng độ 1% là biện pháp hiệu quả nhất để tăng tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ sống của hom cành chét Bương lông điện biên, phù hợp với các nghiên cứu về nhân giống tre trúc ở các vùng khác. Tỷ lệ sống hom chiết đạt gần 90% sau 3 tháng cho thấy kỹ thuật này có thể áp dụng rộng rãi để sản xuất giống đại trà.

Dữ liệu có thể được trình bày qua các biểu đồ thể hiện số lượng cành chét và mắt ngủ theo cấp kính, tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ sống hom theo nồng độ IBA, giúp minh họa rõ ràng sự khác biệt và hiệu quả của các phương pháp thí nghiệm.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Áp dụng kỹ thuật ngả cây mẹ để tạo cành chét nhằm tăng số lượng hom giống, đặc biệt với cây mẹ 1 tuổi và cấp kính thân >16 cm, giúp nâng cao hiệu quả nhân giống trong vòng 1 năm.

  2. Sử dụng chất kích thích IBA ở nồng độ 1% trong quá trình chiết cành và giâm hom cành để đạt tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ sống hom cao nhất, áp dụng trong giai đoạn 60-90 ngày sau khi chiết.

  3. Chọn cây mẹ có cấp kính thân từ 8-12 cm và tuổi 1-2 năm làm nguồn giống chính, đảm bảo chất lượng hom tốt và khả năng sinh trưởng cao, thực hiện định kỳ hàng năm để duy trì nguồn giống ổn định.

  4. Xây dựng quy trình kỹ thuật nhân giống chuẩn cho Bương lông điện biên bao gồm các bước chọn cây mẹ, tạo cành chét, xử lý hom bằng IBA, giâm hom và chăm sóc cây con trong vườn ươm, triển khai trong vòng 2 năm tới tại các trung tâm giống lâm nghiệp.

  5. Tăng cường đào tạo kỹ thuật cho người dân và cán bộ kỹ thuật về phương pháp nhân giống vô tính cây Bương lông điện biên, nhằm nâng cao năng lực sản xuất giống và mở rộng diện tích trồng trong khu vực trung du miền núi.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Các nhà nghiên cứu và sinh viên ngành Lâm nghiệp: Nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học và kỹ thuật nhân giống cây Bương lông điện biên, giúp nâng cao kiến thức chuyên môn và ứng dụng thực tiễn.

  2. Cán bộ kỹ thuật và quản lý các trung tâm giống cây trồng: Tham khảo quy trình nhân giống vô tính hiệu quả, áp dụng trong sản xuất giống đại trà, nâng cao chất lượng và số lượng giống cung cấp cho thị trường.

  3. Người dân và doanh nghiệp trồng rừng, sản xuất nguyên liệu tre trúc: Áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhân giống để tăng năng suất, chất lượng cây trồng, góp phần phát triển kinh tế nông lâm nghiệp bền vững.

  4. Các cơ quan quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu tre trúc, thúc đẩy sản xuất giống và mở rộng diện tích trồng cây Bương lông điện biên.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao cần chọn cây mẹ có cấp kính thân từ 8-12 cm?
    Cây mẹ ở cấp kính này có số lượng cành chét triển vọng cao nhất, giúp tạo ra nhiều hom giống chất lượng, đồng thời cây mẹ còn trẻ nên sinh trưởng tốt, phù hợp cho nhân giống đại trà.

  2. Chất kích thích IBA có vai trò gì trong nhân giống?
    IBA kích thích quá trình ra rễ của hom cành, tăng tỷ lệ sống và chiều dài rễ, giúp cây con phát triển khỏe mạnh hơn. Nồng độ 1% được xác định là hiệu quả nhất trong nghiên cứu này.

  3. Phương pháp ngả cây mẹ có ưu điểm gì so với đốn ngọn?
    Ngả cây mẹ kích thích mắt ngủ phát triển mạnh hơn, tạo ra nhiều cành chét hơn, từ đó tăng số lượng hom giống thu được, giúp nâng cao hiệu quả nhân giống.

  4. Tỷ lệ sống hom cành chét sau 3 tháng là bao nhiêu?
    Tỷ lệ sống hom cành chét sử dụng IBA 1% đạt 87,5%, cao hơn nhiều so với đối chứng chỉ 37,5%, cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc sử dụng chất kích thích.

  5. Nghiên cứu này có thể áp dụng ở những vùng nào?
    Kỹ thuật nhân giống và các biện pháp kỹ thuật được nghiên cứu phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai trung du miền núi Bắc Bộ, đặc biệt tại huyện Đoan Hùng, Phú Thọ, và có thể mở rộng áp dụng cho các vùng có điều kiện tương tự.

Kết luận

  • Cây mẹ Bương lông điện biên ở cấp kính thân 8-12 cm và tuổi 1-2 năm là nguồn giống tốt nhất để tạo cành chét và mắt ngủ triển vọng.
  • Kỹ thuật ngả cây mẹ hiệu quả hơn đốn ngọn trong việc tạo ra số lượng cành chét nhiều hơn.
  • Sử dụng chất kích thích IBA ở nồng độ 1% giúp tăng tỷ lệ ra rễ và tỷ lệ sống hom cành chét lên đến 72,5% và 87,5% tương ứng.
  • Phương pháp nhân giống vô tính bằng chiết cành và giâm hom cành phù hợp để sản xuất giống đại trà, nâng cao năng suất và chất lượng cây Bương lông điện biên.
  • Đề xuất triển khai áp dụng kỹ thuật nhân giống này trong vòng 2 năm tới tại các trung tâm giống và vùng trồng trọng điểm nhằm phát triển bền vững nguồn nguyên liệu tre trúc.

Hành động tiếp theo: Các đơn vị nghiên cứu và sản xuất giống cần phối hợp triển khai quy trình kỹ thuật nhân giống đã được đề xuất, đồng thời đào tạo kỹ thuật cho người dân để mở rộng diện tích trồng Bương lông điện biên, góp phần phát triển kinh tế nông lâm nghiệp khu vực trung du miền núi.