Phí lưu trữ
30.000 VNĐMục lục chi tiết
Tóm tắt
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là một môn khoa học kinh tế, nghiên cứu về quan hệ sản xuất và trao đổi trong xã hội. Nó cung cấp nền tảng lý luận để hiểu rõ sự vận động của các hiện tượng kinh tế. Nghiên cứu kinh tế chính trị giúp chúng ta nhận thức được bản chất của các quy luật kinh tế và áp dụng chúng vào thực tiễn. Môn học này đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chính sách kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội như bất bình đẳng thu nhập và thất nghiệp. Kinh tế chính trị không chỉ giúp hiểu rõ kinh tế thị trường mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội. Nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức mở về những quy luật chi phối sự phát triển của sản xuất và trao đổi gắn với phương thức sản xuất, về lịch sử phát triển các quan hệ của sản xuất và trao đổi của nhân loại nói chung, về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Môn học này cung cấp những phạm trù kinh tế cơ bản, bản chất, phát hiện và nhận diện các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường làm cơ sở lý luận cho việc nhận thức các hiện tượng kinh tế mang tính biểu hiện trên bề mặt xã hội.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, nhiều người vẫn chưa hiểu rõ tầm quan trọng của kinh tế chính trị và cho rằng nó chỉ là một môn học lý thuyết khô khan. Điều này dẫn đến việc áp dụng các chính sách kinh tế không phù hợp với thực tiễn, gây ra những hậu quả tiêu cực cho xã hội. Theo Tổng kết lịch sử phát triển của nền kinh tế, C.Mác khẳng định: tiền là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao.
Từ thời cổ đại đến nay, tư tưởng kinh tế của nhân loại đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Kinh tế chính trị Mác - Lênin kế thừa và phát triển những giá trị khoa học của các trường phái kinh tế trước đó, đặc biệt là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Nó được xây dựng trên cơ sở phân tích và luận giải các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất. V.Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát triển lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C.Mác và có nhiều đóng góp khoa học đặc biệt quan trọng. Trong đó nổi bật là kết quả nghiên cứu, chỉ ra những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những vấn đề kinh tế chính trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu kinh tế chính trị càng trở nên quan trọng. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các mô hình kinh tế, chính sách kinh tế và các quy luật kinh tế chi phối sự phát triển của xã hội. Đồng thời, nó cũng cung cấp cơ sở lý luận để xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt cần nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác – Lênin để có cơ sở khoa học, phương pháp luận cho các chính sách kinh tế ổn định, xuyên suốt, giải quyết những mối quan hệ lớn trong phát triển quốc gia cũng như hoạt động kinh tế gắn với đời sống của mỗi người.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi, đặt trong mối liên hệ biện chứng với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là trừu tượng hóa khoa học, kết hợp với logic và lịch sử. Kinh tế chính trị không nghiên cứu bản thân lực lượng sản xuất, cũng không nghiên cứu biểu hiện cụ thể của kiến trúc thượng tầng mà là đặt các quan hệ của sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ biện chứng với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng. Với ý nghĩa như vậy, khái quát lại, kinh tế chính trị Mác – Lênin không xem nhẹ các quan hệ kinh tế khách quan giữa các quá trình kinh tế trong một khâu và giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư cách là một chỉnh thể biện chứng của sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng. Mục đích nghiên cứu nhằm phát hiện ra các quy luật kinh tế chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi.
Kinh tế chính trị tập trung vào việc phân tích các quan hệ sản xuất và trao đổi, bao gồm cả quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối thu nhập. Các nhà kinh điển khẳng định, kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu mặt xã hội của sản xuất và trao đổi, nghĩa là mặt xã hội của sự thống nhất biện chứng của cả sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.Đây là quan điểm khoa học và phản ánh đúng với thực tiễn vận động của nền sản xuất xã hội có sự vận hành của các quy luật thị trường.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, tạm thời để tách ra những hiện tượng bền vững, điển hình, từ đó nắm bắt được bản chất của đối tượng nghiên cứu. Kinh tế chính trị nghiên cứu các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi. Đây là những quan hệ trừu tượng, khó có thể bộc lộ trong các thí nghiệm thực nghiệm, chỉ có thể bộc lộ ra trong các quan hệ kinh tế trên bề mặt xã hội. Do đó, các thí nghiệm kinh tế chính trị sẽ khó có thể được thực hiện trong quy mô phòng thí nghiệm vì không có một phòng thí nghiệm nào mô phỏng được một cách đầy đủ các quan hệ xã hội của quá trình sản xuất và trao đổi.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin có nhiều chức năng, bao gồm nhận thức, thực tiễn, tư tưởng và phương pháp luận. Chức năng nhận thức cung cấp hệ thống tri thức lý luận về sự vận động của các quan hệ kinh tế. Chức năng thực tiễn giúp vận dụng các quy luật kinh tế vào thực tiễn hoạt động và quản lý kinh tế. Chức năng tư tưởng góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng cộng sản cho người lao động. Chức năng phương pháp luận cung cấp nền tảng lý luận khoa học cho việc tiếp cận các khoa học kinh tế khác. Việc này cung cấp hệ thống tri thức mở về những quy luật chi phối sự phát triển của sản xuất và trao đổi gắn với phương thức sản xuất, về lịch sử phát triển các quan hệ của sản xuất và trao đổi của nhân loại nói chung, về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Khi nhận thức được các quy luật sẽ giúp cho người lao động cũng như những nhà hoạch định chính sách biết vận dụng các quy luật kinh tế ấy vào trong thực tiễn hoạt động lao động cũng như quản trị quốc gia của mình. Quá trình vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông qua điều chỉnh hành vi cá nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Kinh tế chính trị Mác – Lênin, theo nghĩa đó, mang trong nó chức năng cải tạo thực tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội.
Kinh tế chính trị Mác – Lênin góp phần tạo lập nền tảng tư tưởng cộng sản cho những người lao động tiến bộ và yêu chuộng tự do, yêu chuộng hòa bình, củng cố niềm tin cho những ai phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế chính trị Mác – Lênin góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho những chủ thể có mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ dần những áp bức, bất công giữa con người với con người.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm được tạo ra không nhằm mục đích tự tiêu dùng, mà để trao đổi, mua bán. Điều kiện ra đời là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế của các chủ thể sản xuất. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi. Theo quan điểm của C.Mác, hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”. Khi còn sự hiện diện của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần. Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Với quan điểm duy vật về lịch sử, C.Ănghen xác định: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là các quan hệ của sản xuất và trao đổi trong phương thức sản xuất mà các quan hệ đó hình thành và phát triển.
Lượng giá trị của hàng hóa được đo lường bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Năng suất lao động và tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Vì vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa trong xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực, thúc đẩy sáng tạo và gắn kết nền kinh tế. Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế tự điều chỉnh, vận hành theo các quy luật kinh tế. Mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin là nhằm phát hiện ra các quy luật kinh tế chi phối các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi. Từ đó, giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy nhằm tạo động lực cho con người không ngừng sáng tạo, góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát triển toàn diện của xã hội thông qua việc giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích.
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật cung - cầu điều tiết quan hệ giữa cung và cầu, ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Quy luật cạnh tranh khuyến khích cải tiến kỹ thuật và phân bổ nguồn lực hiệu quả. .Quy luật kinh tế là những mối liên hệ phản ánh bản chất, khách quan, lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế.
Người sản xuất cung cấp hàng hóa dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Người tiêu dùng mua hàng hóa dịch vụ, định hướng sản xuất. Nhà nước quản lý kinh tế, khắc phục khuyết tật của thị trường. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung – cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng . để tác động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỉ lệ cân đối cung – cầu một cách lành mạnh và hợp lý.
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do người lao động tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Nguồn gốc của giá trị thặng dư là hao phí lao động của người lao động. Tư bản bất biến là tư liệu sản xuất, giá trị được chuyển vào sản phẩm. Tư bản khả biến là sức lao động, tạo ra giá trị mới. Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động.Mác ký hiệu giá trị thặng dư là m. Tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần thiết để cho quá trình tạo ra giá trị thặng dư được diễn ra. Máy móc, nguyên nhiên vật liệu là điều kiện để cho quá trình làm tăng giá trị được diễn ra.
Để tiến hành sản xuất giá trị thặng dư phải đáp ứng điều kiện, người lao động chỉ phải hao phí một phần thời gian lao động (trong thời gian lao động đã được thỏa thuận mua bán theo nguyên tắc ngang giá) là có thể bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động, C.Mác gọi bộ phận này là thời gian lao động tất yếu. Ngoài thời gian tất yếu đó vẫn trong nguyên tắc ngang giá đã thỏa thuận, người lao động phải làm việc trong sự quản lý của người mua hàng hóa sức lao động, và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, thời gian đó là thời gian lao động thặng dư
Tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện cần thiết để cho quá trình tạo ra giá trị thặng dư được diễn ra. Máy móc, nguyên nhiên vật liệu là điều kiện để cho quá trình làm tăng giá trị được diễn ra. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức biến đổi về số lượng trong quá trình sản xuất, được C.Mác gọi là tư bản khả biến. Tiền công đó chính là giá cả của hàng hóa sức lao động.
Bạn đang xem trước tài liệu:
Giáo trình kinh tế chính trị