Tổng quan nghiên cứu
Huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, nằm ở vùng miền núi phía Tây Bắc của tỉnh, có diện tích tự nhiên khoảng 43.783,62 ha, chiếm 12,4% diện tích toàn tỉnh. Với dân số 88.271 người (tính đến năm 2013), huyện là nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em, trong đó dân tộc Mường chiếm 67,77%, người Kinh 27,08%, người Dao 4,52% và các dân tộc khác. Nghiên cứu tập trung vào kinh tế và văn hóa huyện Yên Lập trong nửa đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, nhằm khôi phục bức tranh lịch sử toàn diện về hoạt động kinh tế, chế độ sở hữu ruộng đất, cũng như đời sống văn hóa đa dạng của các dân tộc trên địa bàn.
Mục tiêu nghiên cứu là làm rõ tình hình sở hữu ruộng đất qua các địa bạ năm 1805 và 1840, phân tích các loại hình kinh tế như nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, đồng thời khảo sát cấu trúc xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng và lễ hội của các dân tộc Mường, Kinh, Dao. Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong huyện Yên Lập với 23 xã thôn thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa cũ, trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi hiện nay.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Luận văn dựa trên các lý thuyết về lịch sử kinh tế và văn hóa địa phương, trong đó có:
- Lý thuyết về sở hữu ruộng đất và chế độ phong kiến: Phân tích sự biến đổi sở hữu ruộng đất dưới triều Nguyễn, vai trò của địa chủ, chức sắc trong quản lý đất đai và thuế khóa.
- Mô hình cấu trúc xã hội truyền thống: Nghiên cứu tổ chức xã hội người Mường với hệ thống nhà Lang, quan hệ dòng họ, vai trò của các chức sắc trong làng xã.
- Khái niệm văn hóa dân tộc và giao thoa văn hóa: Đánh giá sự đa dạng văn hóa của các dân tộc Mường, Kinh, Dao, qua phong tục, tín ngưỡng, lễ hội và đời sống vật chất.
Các khái niệm chính bao gồm: sở hữu ruộng đất tư nhân và công, chế độ tô thuế, thiết chế xã hội nhà Lang, tục lệ xã hội, tín ngưỡng nông nghiệp, và lễ hội dân gian.
Phương pháp nghiên cứu
Nguồn dữ liệu chính gồm:
- Tư liệu địa bạ: 17 địa bạ năm 1805 (Gia Long 4) và 13 địa bạ năm 1840 (Minh Mệnh 21) lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, cung cấp số liệu chi tiết về diện tích ruộng đất, chủ sở hữu, phân bố ruộng đất.
- Tư liệu lịch sử và địa chí cổ: Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí, các địa chí tỉnh Hưng Hóa, Phú Thọ, Vĩnh Phú.
- Tư liệu thực địa, điền dã: Thu thập phong tục tập quán, ca dao, truyện dân gian tại các làng bản.
- Tư liệu văn hóa dân gian và khảo cổ học: Các hiện vật trống đồng, sách ảnh, tài liệu về lễ hội dân tộc Mường.
Phương pháp phân tích bao gồm:
- Phân tích định lượng: Thống kê diện tích ruộng đất, phân bố chủ sở hữu, quy mô sở hữu, so sánh các thời điểm 1805 và 1840.
- Phân tích mô tả, so sánh: Mô tả cấu trúc xã hội, phong tục, tín ngưỡng, so sánh với các vùng lân cận và các nghiên cứu trước.
- Phương pháp lịch sử và điền dã: Kết hợp khai thác tài liệu thành văn với khảo sát thực địa để làm rõ các vấn đề lịch sử và văn hóa.
Cỡ mẫu nghiên cứu gồm toàn bộ các địa bạ của huyện Yên Lập trong hai thời điểm, với tổng số chủ sở hữu ruộng đất là 46 năm 1805 và 62 năm 1840. Phương pháp chọn mẫu toàn bộ nhằm đảm bảo tính toàn diện và chính xác của số liệu.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Sở hữu ruộng đất tư nhân chiếm ưu thế tuyệt đối: Năm 1805, ruộng đất tư nhân chiếm 100% diện tích thực trưng, trong đó ruộng lưu hoang chiếm tới 88,17%. Đến năm 1840, ruộng tư vẫn chiếm 99,26%, ruộng công chỉ chiếm 0,74%. Điều này phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của sở hữu tư nhân và sự suy giảm ruộng công trong huyện.
Quy mô sở hữu ruộng đất có sự phân hóa rõ rệt: Năm 1805, 84,78% chủ sở hữu có dưới 5 mẫu ruộng, chiếm 39,24% diện tích; chỉ có một chủ sở hữu trên 10 mẫu (9,73%). Năm 1840, số chủ sở hữu dưới 5 mẫu chiếm 66,13% nhưng chỉ chiếm 25,09% diện tích, trong khi 33,87% chủ sở hữu có từ 5 đến 30 mẫu chiếm tới 74,91% diện tích, cho thấy sự tập trung ruộng đất tăng lên.
Vai trò kinh tế của chức sắc trong làng xã: Năm 1805, 76,27% chức sắc có sở hữu ruộng đất, với bình quân sở hữu 1 mẫu 4 sào 4 thước 8 tấc. Sắc mục có quyền lực kinh tế lớn hơn xã trưởng, thể hiện qua diện tích ruộng đất sở hữu. Tuy nhiên, nhiều chức sắc không có ruộng đất, phản ánh sự đa dạng về vị thế kinh tế trong tầng lớp này.
Cấu trúc xã hội truyền thống đặc trưng của người Mường: Hệ thống nhà Lang với quyền lực cha truyền con nối, quản lý ruộng đất và tín ngưỡng, là trung tâm của tổ chức xã hội. Quan hệ dòng họ, tục lệ xã hội và lễ hội gắn bó chặt chẽ với đời sống kinh tế nông nghiệp và tín ngưỡng nông nghiệp.
Thảo luận kết quả
Sự chiếm ưu thế của sở hữu ruộng đất tư nhân và sự tập trung ruộng đất vào tay một số chủ lớn phản ánh xu hướng phát triển kinh tế phong kiến nông thôn dưới triều Nguyễn, phù hợp với các nghiên cứu về chế độ ruộng đất trung đại Việt Nam. Tỷ lệ ruộng lưu hoang giảm từ 88,17% năm 1805 xuống còn khoảng 60% năm 1840 cho thấy hiệu quả của chính sách khuyến khích khai hoang của vua Minh Mệnh, dù ruộng công vẫn không được phục hồi đáng kể.
Vai trò kinh tế của chức sắc trong làng xã thể hiện sự gắn bó giữa quyền lực chính trị và kinh tế, đồng thời cho thấy sự phân tầng xã hội rõ rệt trong cộng đồng người Mường. Sự tồn tại của nhà Lang và các thiết chế xã hội truyền thống góp phần duy trì ổn định xã hội và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Dữ liệu có thể được trình bày qua các biểu đồ phân bố diện tích ruộng đất theo nhóm chủ sở hữu, bảng so sánh tỷ lệ ruộng lưu hoang qua hai thời điểm, và sơ đồ cấu trúc xã hội nhà Lang. So sánh với các huyện miền núi khác như Trấn Yên (Yên Bái) cho thấy những nét tương đồng về chế độ sở hữu và tổ chức xã hội, đồng thời làm nổi bật đặc thù văn hóa riêng của Yên Lập.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống: Xây dựng các chương trình bảo tồn lễ hội dân gian, phong tục tập quán của người Mường, Dao, Kinh nhằm duy trì bản sắc văn hóa đặc trưng của huyện. Chủ thể thực hiện: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ, UBND huyện Yên Lập. Thời gian: 3-5 năm.
Phát triển kinh tế nông lâm kết hợp bền vững: Khai thác tiềm năng đất đai và rừng với các cây công nghiệp lâu năm, cây dược liệu quý, kết hợp bảo vệ môi trường sinh thái. Đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại để nâng cao năng suất. Chủ thể: Phòng Nông nghiệp huyện, các hợp tác xã nông lâm nghiệp. Thời gian: 5 năm.
Xây dựng hệ thống giao thông và hạ tầng kinh tế xã hội: Hoàn thiện mạng lưới đường tỉnh lộ, đường liên xã, bê tông hóa đường thôn xóm để thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa, nâng