Tổng quan nghiên cứu
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn 2011-2016 đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo thực thi pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trong bối cảnh tỉnh Quảng Bình đối mặt với nhiều thách thức như đầu tư dàn trải, nợ xây dựng cơ bản lớn, tỷ lệ học sinh bỏ học cao và các vấn đề an ninh phức tạp, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh trở thành công cụ quan trọng để phát hiện, xử lý các tồn tại, hạn chế. Mục tiêu nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng, đánh giá ưu điểm, hạn chế và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn này.
Phạm vi nghiên cứu tập trung trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2016, giai đoạn cuối của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn giúp nâng cao năng lực quản lý, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước địa phương, đồng thời góp phần hoàn thiện cơ chế giám sát của HĐND cấp tỉnh. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đồng thời hạn chế các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, tham nhũng.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Luận văn dựa trên các lý thuyết và mô hình quản lý công, đặc biệt tập trung vào:
- Lý thuyết về chức năng giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước: Giám sát được hiểu là hoạt động theo dõi, kiểm tra việc thực thi pháp luật và các nghị quyết nhằm đảm bảo tính hợp pháp, hiệu quả trong quản lý nhà nước.
- Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước địa phương: Phân tích vai trò, vị trí của HĐND tỉnh trong hệ thống chính quyền địa phương, bao gồm chức năng quyết định và giám sát.
- Khái niệm và đặc điểm hoạt động giám sát: Giám sát là hoạt động có mục đích, thường xuyên, liên tục, được thực hiện bởi các chủ thể như HĐND, Thường trực HĐND, các Ban và đại biểu HĐND.
- Các nguyên tắc và yêu cầu trong hoạt động giám sát: Đảm bảo tính khách quan, công khai, đúng thẩm quyền, không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng bị giám sát.
- Mối quan hệ phối hợp trong giám sát: Giám sát của HĐND cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan thanh tra, kiểm tra để tránh chồng chéo và nâng cao hiệu quả.
Các khái niệm chính bao gồm: giám sát, kiểm tra, thanh tra, chức năng giám sát của HĐND, quyền chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm, và các hình thức giám sát (giám sát tại kỳ họp, giám sát chuyên đề, giám sát giữa hai kỳ họp).
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê và khảo sát thực tiễn. Cỡ mẫu nghiên cứu bao gồm các đại biểu HĐND tỉnh, cán bộ công chức tại các cơ quan thuộc UBND tỉnh Quảng Bình, cùng các tài liệu báo cáo, nghị quyết, văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát trong giai đoạn 2011-2016.
Phương pháp chọn mẫu là phương pháp chọn mẫu phi xác suất, tập trung vào các đối tượng chủ chốt có liên quan trực tiếp đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh. Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng cách so sánh các số liệu thống kê về hoạt động giám sát qua các năm, đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
Timeline nghiên cứu kéo dài từ năm 2016 đến năm 2017, bao gồm thu thập số liệu, phân tích thực trạng, đánh giá và đề xuất giải pháp.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình được tổ chức thường xuyên và đa dạng: Trong giai đoạn 2011-2016, HĐND tỉnh đã tiến hành giám sát tại kỳ họp, giám sát chuyên đề và giám sát giữa hai kỳ họp. Tỷ lệ các cuộc giám sát chuyên đề chiếm khoảng 30% tổng số hoạt động giám sát, góp phần phát hiện nhiều vấn đề tồn tại trong quản lý nhà nước.
Chất lượng báo cáo và thẩm tra được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế: Khoảng 85% các báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án và Viện kiểm sát được xem xét tại kỳ họp, tuy nhiên chỉ khoảng 60% báo cáo được thẩm tra kỹ lưỡng bởi các Ban của HĐND, dẫn đến một số kết luận giám sát chưa đầy đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn.
Hoạt động chất vấn và bỏ phiếu tín nhiệm được thực hiện nhưng chưa phát huy tối đa hiệu quả: Từ năm 2013, việc lấy phiếu tín nhiệm được tiến hành định kỳ hàng năm, tuy nhiên tỷ lệ đại biểu tham gia chất vấn chỉ đạt khoảng 70%, còn việc theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận sau chất vấn chưa thường xuyên, ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát.
Hạn chế về năng lực và phối hợp giữa các chủ thể giám sát: Khoảng 40% đại biểu HĐND chưa có đầy đủ trình độ chuyên môn và kỹ năng giám sát, trong khi đó sự phối hợp giữa HĐND với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan thanh tra, kiểm tra còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến chồng chéo hoặc bỏ só