Tổng quan nghiên cứu
Trong vòng 10 năm gần đây, Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng đã chứng kiến hơn 50.000 hộ dân (khoảng 220.000 nhân khẩu) di cư tự do, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số như H’mông, Dao, Tày từ các tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh khác đến cư trú tại các khu rừng thuộc huyện Cư M’gar. Tình trạng này đã gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng như phá rừng, mất an ninh trật tự, tranh chấp đất đai và làm đảo lộn quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương. Để giải quyết vấn đề này, chính quyền tỉnh Đắk Lắk đã triển khai dự án định canh định cư (ĐCĐC) tại xã Ea Kiết với tổng vốn đầu tư khoảng 13,5 tỷ đồng, nhằm ổn định dân cư, bảo vệ rừng và nâng cao đời sống người dân.
Mục tiêu nghiên cứu tập trung phân tích sinh kế của cộng đồng dân cư cư trú trong rừng và trong khu ĐCĐC theo khung phân tích sinh kế bền vững của DFID (1999). Qua đó, luận văn tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng không hiệu quả của dự án, đồng thời đề xuất các chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả thực hiện dự án. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn tại buôn H’mông, xã Ea Kiết, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, với dữ liệu thu thập từ 36 hộ dân, bao gồm 16 hộ cư trú trong khu ĐCĐC và 20 hộ cư trú trong rừng.
Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp số liệu thực tiễn về sinh kế của người dân di cư tự do, đánh giá hiệu quả dự án ĐCĐC và đề xuất giải pháp chính sách nhằm ổn định dân cư, bảo vệ tài nguyên rừng và phát triển kinh tế bền vững tại vùng Tây Nguyên.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Luận văn áp dụng khung phân tích sinh kế bền vững của DFID (1999), trong đó sinh kế được hiểu là tập hợp các khả năng, tài sản và hoạt động cần thiết để kiếm sống. Khung phân tích bao gồm năm thành phần chính:
- Vốn con người: Kỹ năng, kiến thức, sức khỏe và lao động của các thành viên trong hộ gia đình.
- Vốn tự nhiên: Tài nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng, nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
- Vốn tài chính: Tiền mặt, tài sản có thể chuyển đổi, các khoản vay và thu nhập thường xuyên.
- Vốn vật chất: Cơ sở hạ tầng, nhà cửa, phương tiện sản xuất và sinh hoạt.
- Vốn xã hội: Mối quan hệ xã hội, sự tham gia vào các tổ chức cộng đồng và chính quyền địa phương.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các khái niệm về chiến lược sinh kế, bối cảnh dễ bị tổn thương và kết quả sinh kế để đánh giá toàn diện tình trạng sinh kế của các hộ dân.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp kết hợp định lượng và định tính. Cỡ mẫu khảo sát là 36 hộ gia đình, trong đó 16 hộ cư trú trong khu ĐCĐC và 20 hộ cư trú trong rừng. Mẫu được chọn dựa trên tiêu chí phân nhóm hộ khá và hộ khó khăn, dựa vào diện tích đất và điều kiện nhà ở.
Nguồn dữ liệu bao gồm:
- Dữ liệu sơ cấp: Khảo sát hộ gia đình bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu với chủ rừng, chính quyền các cấp, phỏng vấn nhóm với các hộ dân và già làng.
- Dữ liệu thứ cấp: Báo cáo của chính quyền địa phương, các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách ĐCĐC, số liệu thống kê dân cư và kinh tế xã hội xã Ea Kiết.
Phân tích dữ liệu sử dụng phương pháp thống kê mô tả để trình bày thực trạng sinh kế, phương pháp so sánh để đánh giá sự khác biệt giữa các nhóm hộ, và phân tích định tính để đánh giá hiệu quả dự án và đề xuất chính sách. Các kết quả được minh họa bằng bảng biểu và đồ thị nhằm tăng tính trực quan và thuyết phục.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Sự khác biệt về vốn con người và học vấn: Nhóm hộ cư trú trong rừng có quy mô lao động trung bình cao hơn (3,10 người lao động đối với nhóm khá) so với nhóm cư trú trong khu ĐCĐC (2,43 người lao động). Tỷ lệ mù chữ của nhóm cư trú trong rừng lên đến 26% ở nhóm khó khăn, trong khi nhóm cư trú trong khu ĐCĐC có tỷ lệ thấp hơn. Tỷ lệ học sinh bỏ học cao, đặc biệt trong mùa vụ thu hoạch nông sản.
Vốn tự nhiên và diện tích đất: Diện tích đất trung bình của nhóm hộ cư trú trong rừng là 2,83 ha, lớn hơn đáng kể so với nhóm cư trú trong khu ĐCĐC (1,69 ha). Nhóm hộ cư trú trong rừng chủ yếu sử dụng đất khai hoang, trong khi nhóm cư trú trong khu ĐCĐC có tỷ lệ đất mua và thuê cao hơn.
Vốn tài chính và tiết kiệm: Tỷ lệ hộ có tiết kiệm trong nhóm khá đạt từ 85,7% đến 90%, trong khi nhóm khó khăn chỉ đạt khoảng 40-44%. Số vốn vay trung bình của nhóm khá cư trú trong khu ĐCĐC là 11,5 triệu đồng, cao hơn so với nhóm cư trú trong rừng (4,2 triệu đồng).
Vốn vật chất và tài sản sản xuất: Nhóm hộ cư trú trong rừng sở hữu nhiều tài sản sản xuất có giá trị như máy cày, máy xay xát, trong khi nhóm cư trú trong khu ĐCĐC có tài sản sản xuất hạn chế. Tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố ở nhóm cư trú trong rừng là 70%, cao hơn nhóm cư trú trong khu ĐCĐC (56,25%).
Chiến lược sinh kế và thu nhập: Thu nhập trung bình của nhóm khá cư trú trong rừng đạt 77,85 triệu đồng/năm, cao hơn nhóm khá trong khu ĐCĐC (37,99 triệu đồng). Nguồn thu nhập chủ yếu từ trồng trọt, khai thác gỗ và làm thuê. Hoạt động phá rừng vẫn diễn ra, đặc biệt ở nhóm khó khăn.
Thảo luận kết quả
Sự khác biệt về vốn sinh kế giữa hai nhóm hộ phản ánh rõ ràng sự phân hóa trong điều kiện sống và khả năng tiếp cận nguồn lực. Nhóm cư trú trong rừng có lợi thế về diện tích đất và tài sản sản xuất, giúp họ có thu nhập cao hơn và khả năng tiết kiệm tốt hơn. Ngược lại, nhóm cư trú trong khu ĐCĐC, dù được hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và đất ở, lại gặp khó khăn về diện tích đất sản xuất và thu nhập thấp hơn.
Việc cấp hộ khẩu cho nhóm cư trú trong khu ĐCĐC đã tạo điều kiện cho con em họ tiếp tục học lên cấp 3 và tiếp cận các nguồn vốn vay chính thức, tuy nhiên, các hạn chế về nguồn nước (nước nhiễm đá vôi), khoảng cách xa khu sản xuất và chi phí đi lại cao đã làm giảm sức hấp dẫn của khu ĐCĐC. Ngoài ra, chính sách hợp thức hóa đất rừng lấn chiếm đã tạo ra sự bất ổn trong quản lý đất đai và tiếp tục khuyến khích phá rừng.
So sánh với các nghiên cứu trước đây, kết quả phù hợp với nhận định rằng sinh kế bền vững phụ thuộc vào sự cân bằng giữa các nguồn vốn sinh kế và khả năng thích ứng với biến đổi môi trường. Dự án ĐCĐC cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế sinh kế của người dân, đồng thời tăng cường quản lý và hỗ trợ kỹ thuật.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường đầu tư hoàn thiện hạ tầng: Ưu tiên bố trí nguồn vốn để hoàn thiện san nền, hệ thống thoát nước và nâng cấp nguồn nước sạch nhằm cải thiện điều kiện sinh hoạt cho người dân trong khu ĐCĐC. Thời gian thực hiện trong 1-2 năm, do UBND tỉnh Đắk Lắk chủ trì.
Điều chỉnh chính sách hỗ trợ di chuyển và sản xuất: Tăng mức hỗ trợ di chuyển từ 5 triệu đồng lên 8 triệu đồng/hộ, đồng thời hỗ trợ cây giống, con giống và lương thực trong giai đoạn đầu để người dân ổn định sản xuất. Thực hiện ngay trong năm đầu triển khai dự án, do UBND huyện Cư M’gar phối hợp với các đơn vị liên quan.
Cưỡng chế và quản lý đất đai nghiêm ngặt: Thực hiện cưỡng chế các hộ cư trú trái phép trong rừng để ngăn chặn phá rừng và đảm bảo hiệu quả dự án. Đồng thời, không hợp thức hóa đất rừng lấn chiếm nhằm tránh tạo tiền lệ xấu. Chủ trì bởi UBND huyện Cư M’gar trong vòng 1 năm.
Nâng cao năng lực chính quyền địa phương và tăng cường truyền thông: Tăng cường năng lực quản lý, vận động người dân, tổ chức tập huấn kỹ thuật sản xuất, cung cấp thông tin về biến đổi khí hậu và thị trường nông sản. Thời gian liên tục, do UBND xã Ea Kiết và các tổ chức cộng đồng thực hiện.
Cải thiện hệ thống giao thông và hỗ trợ tiếp cận sản xuất: Xây dựng tuyến đường nội vùng kết nối khu ĐCĐC với vùng sản xuất nhằm giảm chi phí đi lại và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất. Cần cân nhắc tác động môi trường và chi phí đầu tư. Thời gian thực hiện 2-3 năm, do UBND tỉnh và huyện phối hợp.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý nhà nước: Để hiểu rõ thực trạng sinh kế của người dân di cư tự do, đánh giá hiệu quả dự án ĐCĐC và xây dựng chính sách phù hợp nhằm ổn định dân cư và bảo vệ tài nguyên rừng.
Các nhà nghiên cứu và học giả trong lĩnh vực chính sách công, phát triển nông thôn và quản lý tài nguyên thiên nhiên: Luận văn cung cấp dữ liệu thực tiễn và khung phân tích sinh kế bền vững, hỗ trợ nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề liên quan.
Tổ chức phi chính phủ và các dự án phát triển cộng đồng: Tham khảo để thiết kế các chương trình hỗ trợ sinh kế, đào tạo kỹ thuật và nâng cao năng lực cho cộng đồng dân cư thiểu số tại vùng Tây Nguyên.
Sinh viên và học viên cao học ngành chính sách công, phát triển bền vững và kinh tế nông nghiệp: Là tài liệu tham khảo quý giá về phương pháp nghiên cứu, phân tích dữ liệu và đề xuất chính sách trong bối cảnh thực tiễn Việt Nam.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao người dân không chuyển ra khu định canh định cư?
Người dân sợ mất đất sản xuất hiện có, lo ngại mất tài sản đã được cấp nếu chuyển đi nơi khác, nguồn nước tại khu ĐCĐC không đảm bảo, chi phí đi lại cao và cuộc sống khó khăn hơn so với ở trong rừng. Ví dụ, 100% hộ dân đánh giá đất ở và nước máy tại khu ĐCĐC ở mức rất kém.Chính quyền đã hỗ trợ gì cho người dân trong dự án ĐCĐC?
Chính quyền cấp đất ở 600m2/hộ, hỗ trợ di chuyển nhà, cấp bảo hiểm y tế miễn phí, đầu tư cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường học, nước sạch và hỗ trợ cây, con giống. Tuy nhiên, một số hỗ trợ như con giống heo đã chết gần hết sau thời gian ngắn.Sinh kế của nhóm hộ cư trú trong rừng và trong khu ĐCĐC khác nhau như thế nào?
Nhóm cư trú trong rừng có diện tích đất lớn hơn, thu nhập cao hơn, sở hữu nhiều tài sản sản xuất và tỷ lệ tiết kiệm cao hơn. Ngược lại, nhóm cư trú trong khu ĐCĐC có diện tích đất nhỏ hơn, thu nhập thấp hơn và ít tài sản sản xuất.Dự án ĐCĐC có tác động gì đến việc bảo vệ rừng?
Dự án chưa đạt hiệu quả bảo vệ rừng do chính sách hợp thức hóa đất rừng lấn chiếm, khiến người dân tiếp tục phá rừng để sản xuất. Khoảng cách xa khu sản xuất cũng làm tăng chi phí và khó khăn cho người dân.Các giải pháp chính sách nào được đề xuất để nâng cao hiệu quả dự án?
Tăng cường đầu tư hạ tầng, điều chỉnh chính sách hỗ trợ, cưỡng chế các hộ cư trú trái phép trong rừng, nâng cao năng lực chính quyền địa phương, cải thiện giao thông và hỗ trợ kỹ thuật sản xuất. Các giải pháp này nhằm ổn định dân cư, nâng cao sinh kế và bảo vệ tài nguyên rừng.
Kết luận
- Nhóm hộ cư trú trong rừng có lợi thế về diện tích đất, tài sản sản xuất và thu nhập cao hơn nhóm cư trú trong khu ĐCĐC.
- Việc cấp hộ khẩu và hỗ trợ cơ sở hạ tầng tại khu ĐCĐC đã tạo điều kiện cho người dân tiếp cận giáo dục và nguồn vốn vay chính thức.
- Dự án ĐCĐC còn nhiều hạn chế như nguồn nước không đảm bảo, khoảng cách xa khu sản xuất, chi phí đi lại cao và chính sách hợp thức hóa đất rừng lấn chiếm.
- Các chính sách hỗ trợ cần được điều chỉnh, tăng cường quản lý đất đai và nâng cao năng lực chính quyền địa phương để đảm bảo hiệu quả dự án.
- Tiếp tục nghiên cứu và triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm ổn định dân cư, phát triển sinh kế bền vững và bảo vệ tài nguyên rừng tại Tây Nguyên.
Hành động tiếp theo: Chính quyền các cấp cần ưu tiên thực hiện các đề xuất chính sách, đồng thời tăng cường giám sát và đánh giá hiệu quả dự án định kỳ. Các nhà nghiên cứu và tổ chức phát triển nên phối hợp hỗ trợ kỹ thuật và truyền thông để nâng cao nhận thức cộng đồng.
Kêu gọi: Các bên liên quan hãy cùng chung tay xây dựng mô hình định canh định cư hiệu quả, góp phần phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.