I. Vi Bằng Khái Niệm và Ý Nghĩa Trong Pháp Luật 55 Ký Tự
Thủ tục tố tụng hiện hành vẫn còn thiếu những yếu tố đảm bảo cho việc xét xử đạt chất lượng – án tuyên thuyết phục, hợp lý, ít kháng cáo, kháng nghị. Một trong các yếu tố quyết định đến chất lượng xét xử là hệ thống chứng cứ chưa đầy đủ. Nguồn cung cấp chứng cứ của Tòa án và các cơ quan giải quyết những tranh chấp dân sự, kinh tế,…hiện nay chủ yếu dựa vào lời khai của các bên, dựa vào những giấy tờ, văn kiện do các cơ quan chức năng cung cấp, mà nhiều trường hợp là không đầy đủ, không tuân theo một trình tự hình thức, thủ tục pháp lý thống nhất. Do vậy tính xác thực, tính trung thực của chứng cứ không được đảm bảo.Ví dụ có những tờ di tặng do đương sự lập ra, ký tên, nhưng hơn hai tháng sau Ủy ban nhân dân xã mới xác nhận. Hoặc có những văn kiện do một người lập, người khác viết hộ, nhưng không ký tên và không có nhân chứng…Khi xảy ra tranh chấp liên quan những sự kiện trong những loại giấy tờ như vậy, mỗi cấp có thẩm quyền giải quyết theo mỗi cách, không nhất quán. Một xác suất không có độ an toàn cao như vậy là đáng lo ngại.
1.1. Vai Trò Chứng Cứ Của Vi Bằng Trong Tố Tụng
Theo pháp luật tố tụng dân sự, khi có quyền lợi bị xâm phạm, các bên có quyền khởi kiện để được bảo vệ và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Trường hợp đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Trong lĩnh vực dân sự, xét về nguồn gốc chứng cứ thì có chứng cứ do cơ quan nhà nước lập hoặc chứng cứ do đương sự lập nhưng được cơ quan nhà nước xác nhận (tạm gọi là công chứng thư); và loại chứng cứ do đương sự tự tạo ra (tạm gọi là tư chứng thư).
1.2. So Sánh Vi Bằng Với Công Chứng và Chứng Thực
Loại công chứng thư có giá trị pháp lý cao hơn vì được mặc nhiên thừa nhận, chỉ có thể bị bác bỏ nếu có kết luận từ cơ quan có thẩm quyền là giả mạo sau quá trình điều tra đúng trình tự, thủ tục. Tư chứng thư do đương sự tự tạo để bảo vệ quyền lợi cho chính mình nên dễ bị hoài nghi là không khách quan, không tin cậy, đó là chưa kể đến trình tự thủ tục để có được loại chứng cứ này. Có một loại văn bản chỉ do Thừa phát lại lập, là một trong những loại công chứng thư nhưng lại được lập theo yêu cầu của người dân, đóng vai trò là nguồn chứng cứ rất quan trọng.
II. Định Nghĩa Vi Bằng Theo Pháp Luật Việt Nam 53 Ký Tự
Có nhiều quan điểm xoay quanh vấn đề tên gọi của văn bản này. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên sử dụng tên gọi “Vi bằng”. Thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp lý về dân sự, tố tụng dân sự ở miền Nam trước năm 1975. Theo từ điển Tiếng Việt, Vi bằng theo nghĩa động từ là “làm bằng, dùng làm chứng cứ”, nghĩa danh từ là “biên bản, giấy tờ ghi ra một sự kiện vừa xảy ra với tất cả chi tiết, có chữ ký của người làm chứng và nhà đương cuộc”.Theo đó, nội hàm của thuật ngữ “Vi bằng” là biên bản do Thừa phát lại lập nhằm ghi nhận các sự kiện, hành vi xảy ra trong xã hội theo yêu cầu của đương sự và có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi xét xử. Ngoài ra, tên gọi “Vi bằng” vừa ngắn gọn vừa dễ nhớ.
2.1. Các Quan Điểm Về Tên Gọi Của Vi Bằng
Quan điểm thứ hai ủng hộ việc dùng tên gọi “công chứng thư”. Thuật ngữ này thể hiện giá trị chứng cứ của một văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý. Quan điểm thứ ba cho rằng nên sử dụng thuật ngữ “biên bản ghi nhận sự kiện pháp lý”. Mặc dù tên gọi này dài nhưng dễ hiểu, thể hiện được ý nghĩa, mục đích của văn bản. Đây là một trong những yếu tố góp phần đưa pháp luật đi vào cuộc sống một cách dễ dàng để người dân tuân thủ, thực hiện.
2.2. Giải Thích Khái Niệm Vi Bằng Theo Nghị Định 08 2020 NĐ CP
Theo khoản 3 Điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ – CP, Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của Nghị định này. Trên đây là những quan niệm khác nhau về tên gọi Vi bằng. Riêng tác giả tán thành tên gọi Vi bằng theo như quy định hiện hành. Do đây là tên gọi đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử với một bề dày cũng tương đối đáng kể, được sử dụng phổ biến trong đời sống người dân lúc bấy giờ.
2.3. So Sánh Định Nghĩa Vi Bằng Giữa Các Nghị Định
So với định nghĩa về Vi bằng tại Nghị định 61/2009/NĐ - CP được sửa đổi theo quy định tại Nghị định số 135/2013/NĐ - CP thì định nghĩa tại Nghị định hiện hành nhấn mạnh việc đây phải là văn bản do thừa phát lại trực tiếp chứng kiến và lập theo yêu cầu, trong khi đó, nghị định cũ nhấn mạnh đây là văn bản được dùng làm chứng cứ trong xét xử. Lí giải về sự thay đổi này, theo tác giả cho rằng lúc mới ban hành Nghị định 61/2009/NĐ – CP người dân vẫn chưa biết nhiều về Vi bằng cũng như công dụng của nó trong đời sống pháp lý, do đó mà nhà làm luật nhấn mạnh nội dung “dùng làm chứng cứ trong xét xử” ngay tại định nghĩa.
III. Đặc Điểm Nổi Bật Của Vi Bằng Trong Luật Việt Nam 58 Ký Tự
Đến hôm nay, khi Vi bằng có một “hình dạng” nhất định trong hiểu biết nhiều người thì vấn đề lại là người ta chưa hình tượng rõ “hình dạng” trông như thế nào, dẫn đến nhầm lẫn với các văn bản pháp lý khác, vì vậy mà nhà làm luật muốn đưa một đặc trưng riêng biệt của Vi bằng mà các văn bản khác không có đó là “do thừa phát lại trực tiếp chứng kiến” vào ngay tại định nghĩa. Thứ nhất, Vi bằng là văn bản do thừa phát lại lập và chứa đựng nội dung thể hiện sự ghi nhận, mô tả, phản ánh khách quan, trung thực, sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến
3.1. Vai Trò và Trách Nhiệm Của Thừa Phát Lại
Thừa phát lại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân sự, tổ chức thi hành án dân sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan – khoản 1 Điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ-CP. Vi bằng như một thước phim bằng chữ viết, nó phản ánh hết những diễn biến, sự kiện, hành vi đã xảy ra mà Thừa phát lại chứng kiến một cách chân thực và khách quan.
3.2. Tính Khách Quan và Trung Thực Của Vi Bằng
Thừa phát lại không được mô tả những gì họ không nhìn thấy, không đưa ý kiến chủ quan của mình vào Vi bằng, Vi bằng chỉ ghi nhận những hành vi, sự kiện đang diễn ra mà không ghi nhận những hành vi, sự kiện qua lời kể của một người khác. Những hành vi, sự kiện được nêu trong Vi bằng phải là những thứ có thật, đang diễn ra trước mắt Thừa phát lại. Như đã lý giải ở phần tên gọi Vi bằng, đây là văn bản ghi nhận hành vi và để mang tính pháp lý – có giá trị chứng cứ thì hành vi được đề cập trong Vi bằng phải khách quan, trung trực dưới góc nhìn của Thừa phát lại.
IV. Thừa Phát Lại Tiêu Chuẩn và Quy Trình Bổ Nhiệm 57 Ký Tự
Thừa phát lại cũng chỉ là một con người với các giác quan bình thường như mọi người nhưng sở dĩ văn bản do Thừa phát lại chứng kiến lại có một giá trị nhất định là bởi ở sự khách quan. Trong khi thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại không được nhận làm những việc liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người thân thích của mình. Bên cạnh đó, Thừa phát lại được đào tạo, bồi dưỡng một cách chuyên sâu về kỹ năng hành nghề, trải qua nhiều bài thi năng lực, kỹ năng.
4.1. Yêu Cầu Về Trình Độ và Kinh Nghiệm Của Thừa Phát Lại
Có thời gian công tác pháp luật từ 03 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành luật; tốt nghiệp khóa đào tạo, được công nhận tương đương đào tạo hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề Thừa phát lại theo quy định; đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Thừa phát lại.
4.2. Chữ Ký Của Thừa Phát Lại và Giá Trị Pháp Lý Của Vi Bằng
Thừa phát lại phải trực tiếp ký tên vào Vi bằng mà không được ủy quyền cho người khác ký thay. Việc yêu cầu chữ ký của Thừa phát lại bên dưới Vi bằng là một sự yêu cầu hợp lý, bởi trong trường hợp này Thừa phát lại giữ vai trò như là một người làm chứng, việc ký tên tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho lời cam đoan về sự khách quan, trung thực của Thừa phát lại.
V. Hình Thức và Nội Dung Của Vi Bằng Theo Quy Định 54 Ký Tự
Thứ hai, Vi bằng là văn bản theo mẫu. Việc lập Vi bằng phải tuân theo quy định pháp luật về hình thức, nội dung. Dù các sự kiện, hành vi cần lập Vi bằng rất phong phú nhưng khi đưa chúng vào Vi bằng lại cần tuân theo mẫu nhất định. Vì đây là văn bản làm chứng cứ, nguồn chứng cứ tại tòa, vì vậy phải có hình thức, nội dung thống nhất để đảm bảo tính chuẩn mực,...'
5.1. Tính Chuẩn Mực Của Vi Bằng Trong Tố Tụng
Vi bằng là chứng cứ quan trọng tại tòa án, vì vậy, cần có hình thức và nội dung thống nhất để đảm bảo tính chuẩn mực và độ tin cậy.
5.2. Tuân Thủ Quy Định Về Hình Thức và Nội Dung Vi Bằng
Việc lập vi bằng phải tuân thủ quy định pháp luật về hình thức, nội dung, bất kể sự kiện và hành vi được ghi nhận đa dạng như thế nào.