I. Tỷ Số Giới Tính Tổng Quan Ý Nghĩa Vai Trò Trong Xã Hội
Tỷ số giới tính (TSGT) là một chỉ số nhân khẩu học quan trọng. Nó phản ánh cơ cấu giới tính của một quần thể dân số. Chỉ số này cho thấy nhiều điều về sự quá độ dân số, bình đẳng giới, những thách thức và trở ngại mà các nhà hoạch định chính sách dân số - xã hội cũng như những người làm việc trong lĩnh vực dân số sức khỏe sinh sản gặp phải. Tỷ số giới tính là một chỉ số cơ bản khi nói đến các phân tích và thống kê về cơ cấu dân số. Nếu chia tổng dân số thành dân số nam và dân số nữ thì ta có cơ cấu dân số theo giới tính. Tỷ số giới tính của dân số là số lượng nam trên 100 nữ trong toàn bộ dân số đó. Theo tài liệu gốc, tỷ số giới tính dao động theo vùng miền, quốc gia do di cư, ảnh hưởng của chiến tranh, dịch bệnh, dao động theo từng độ tuổi và nhiều yếu tố khác.
1.1. Định Nghĩa Chi Tiết về Tỷ Số Giới Tính Khi Sinh
Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) là trường hợp đặc biệt của tỷ số giới tính nói chung và thường rất được quan tâm. Bởi nó nói lên trung bình có bao nhiêu trẻ trai ra đời so với 100 trẻ gái, hay nói cách khác là sự cân bằng về giới tính ở nhóm sơ sinh. Tỷ số giới tính khi sinh thường dao động xung quanh con số 105 trẻ trai so với 100 trẻ gái. Đáng lưu ý là giá trị của tỷ số này rất ổn định qua thời gian và không gian, giữa các châu lục, khu vực, quốc gia và chủng tộc người. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ số này lệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp có chủ định ở các mức độ khác nhau đến sự cân bằng tự nhiên này.
1.2. Tác Động của Hành Vi Sinh Sản Đến Tỷ Số Giới Tính
Hành vi sinh sản của con người trong bối cảnh có sự ưa thích một giới tính nào hơn giới tính kia sẽ tác động tới tỷ số giới tính khi sinh. Cụ thể, việc lựa chọn một giới tính có thể dẫn tới việc các cặp vợ chồng có những hành vi chủ động loại bỏ thai nhi không phù hợp với mong muốn của mình. Việc này sẽ đưa lại mất cân bằng về tỷ số giới tính khi sinh và cơ cấu giới tính trong dân số dẫn đến những hậu quả về mặt cá nhân, gia đình, xã hội. Theo nghiên cứu, hành vi lựa chọn giới tính thai nhi là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất cân bằng giới tính.
II. Mất Cân Bằng Giới Tính Khi Sinh Thực Trạng Hậu Quả Khôn Lường
Mất cân bằng giới tính khi sinh là tình trạng số trẻ em trai sinh ra còn sống vượt trên ngưỡng bình thường (104-106) so với 100 trẻ em gái được sinh ra còn sống trong một khoảng thời gian xác định, thường là một năm tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh. Theo quy ước nhân khẩu học, khi tỷ số giới tính khi sinh của một quốc gia, một vùng hoặc một tỉnh/thành phố từ 110 trở lên là mất cân bằng giới tính khi sinh. Hậu quả của tình trạng này rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và an ninh trật tự.
2.1. Hậu Quả Về Mặt Cá Nhân và Gia Đình Khi Mất Cân Bằng Giới Tính
Mỗi năm số trẻ trai được sinh ra còn sống từ 110 trở lên trên 100 trẻ gái được sinh ra còn sống thì trong vòng 20 năm tới số lượng nam giới so với nữ giới ở độ tuổi kết hôn sẽ dư thừa rất lớn, nghĩa là có rất nhiều nam giới có thể không lấy được vợ hoặc rất khó khăn trong việc tìm vợ. Hạnh phúc gia đình sẽ không được trọn vẹn nếu có nam giới ở độ tuổi trưởng thành khó có cơ hội lấy vợ, phải sống độc thân. Điều này gây ra những lo lắng, căng thẳng về tâm lý, mất nhiều thời gian hơn trong việc tìm vợ đối với các thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc và sự phát triển bền vững kinh tế gia đình.
2.2. Tác Động Tiêu Cực Đến Xã Hội và An Ninh Trật Tự
Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ gây ra những khó khăn thách thức đối với công tác dân số như phải tốn thêm nhiều nguồn lực nghiên cứu để nắm được thực trạng tỷ số giới tính và nguyên nhân của nó. Mất cân bằng giới tính khi sinh để lại hậu quả về mặt xã hội như bất ổn về trật tự an toàn ở cộng đồng, gia tăng tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ và các loại tội phạm khác do nhu cầu tình dục của nhóm nam giới độc thân có thể gây ra. Việc giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đòi hỏi phải tiến hành trong thời gian dài làm gia tăng chi phí nhân lực, tiền của xã hội.
III. Tỷ Số Giới Tính Trên Thế Giới Châu Á Báo Động Mất Cân Bằng Nghiêm Trọng
Theo tổng kết của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), châu Á là nơi có sự mất cân bằng giới tính cao nhất trên thế giới. Dân số của Trung Quốc và Ấn Độ gộp lại đã xấp xỉ 1/3 dân số toàn thế giới. Vào năm 2005, tỷ số giới tính tại Ấn Độ là 107,5, tại Trung Quốc là 106,8, tại Pakistan là 106,0 và Bangladesh là 104,9 nam trên 100 nữ (bốn nước này chiếm tới 43% dân số toàn cầu). Trong khi nhìn chung, số liệu về tỷ số giới tính ở ngoài châu Á chỉ trong khoảng 101 – 105. Sáu quốc gia châu Á có tỷ số giới tính ở độ tuổi trẻ em được ghi nhận là mất cân bằng đáng kể (lên tới trên 108) là Ấn Độ, Hàn Quốc, Georgia, Azerbaijan, Trung Quốc và Armenia, đặc biệt đáng lưu ý là hai nước đông dân nhất thế giới Trung Quốc và Ấn Độ.
3.1. Thực Trạng Mất Cân Bằng Giới Tính Tại Ấn Độ
Tại Ấn Độ sự phân biệt giới tính có chiều hướng không thuận lợi. So sánh số liệu tổng điều tra dân số từ 1951- 2001 tại Ấn Độ cho thấy tỷ số giới tính độ tuổi 0-4 có xu hướng tăng liên tục, từ mức 101 lên 107. Số liệu toàn Ấn Độ cho thấy năm 1981 tỷ số giới tính của trẻ em chỉ là 104, năm 1991 tỷ số này là 105,8 và tăng lên 107,9 năm 2001. Tuy nhiên, sự gia tăng này rõ rệt hơn nhiều ở các thành phố lớn, ở Bắc và Tây Ấn Độ, đặc biệt khi so sánh thứ tự các lần sinh. TSGTKS toàn Ấn Độ của những con thứ 2, 3, và 4 trong gia đình đều là khoảng 108. Tuy vậy TSGTKS ở bang Haryana lần lượt là 114, 129 và 108, tương tự với bang Punjab là 123, 136 và 134.
3.2. Tình Hình Mất Cân Bằng Giới Tính Nghiêm Trọng Tại Trung Quốc
Tại Trung Quốc đã có khá nhiều nghiên cứu và thống kê dân số cho thấy tình hình nghiêm trọng của mất cân bằng TSGT tại đây. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới và cũng là nơi có đặc thù áp dụng chính sách dân số hạn chế sinh đẻ với qui mô gia đình một con. Nghiên cứu của Banister và Hill (2004) dựa trên phân tích số liệu tổng điều tra dân số và một số cuộc điều tra chọn mẫu tại Trung Quốc trong giai đoạn 1960-2000 đã chỉ ra rằng tỷ số giới tính tại Trung Quốc trong độ tuổi 4-14 không có gì bất thường. Trong khi đó, kể từ năm 1982 có sự tăng đáng kể tỷ số giới tính ở nhóm trẻ em từ 0-4 tuổi.
IV. Tỷ Số Giới Tính Ở Việt Nam Xu Hướng Các Vùng Bị Ảnh Hưởng
Những nghiên cứu mới đây ở Việt Nam đã chỉ ra rằng, hiện nay Việt Nam đang có sự mất cân bằng GTKS. Nguy cơ bị mất cân bằng giới tính khi sinh đã được Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em (nay là Tổng cục Dân số kế hoạch hóa gia đình) cảnh báo từ cuối năm 2005. Đặc biệt trong vài năm gần đây, vấn đề mất cân bằng GTKS ở Việt Nam đã và đang thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu dân số. Điều tra Biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) cho kết quả tỷ số giới tính khi sinh năm 2008 là 112 trẻ trai/100 trẻ gái, tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 là 112 trẻ trai/100 trẻ gái. Số liệu này chứng tỏ tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam.
4.1. Phân Tích Tỷ Số Giới Tính Theo Độ Tuổi Tại Việt Nam
Võ Anh Dũng và cộng sự (2006) có phân tích vấn đề TSGT và TSGTKS dựa trên số liệu các cuộc tổng điều tra dân số (1979, 1989, 1999) cũng như một số điều tra mẫu khác trong gần 20 năm trở lại đây. Kết quả cho thấy TSGT của Việt Nam có tăng nhẹ, nếu ta dựa trên số liệu 3 cuộc tổng điều tra. Chỉ số này là 94,2 năm 1979, tăng lên 94,7 năm 1989 và 96,7 năm 1999. Tuy vậy, TSGT vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Trong giai đoạn 1999- 2004, xét theo độ tuổi thì TSGT của Việt nam cao nhất ở các độ tuổi trẻ nhất 0 - 4 tuổi 1999 (108,6), 2004 (107,1) nhưng riêng ở hai độ tuổi 15-19 và 20- 24 có sự tăng mạnh hơn trong giai đoạn 1999-2004: độ tuổi 15-19 tăng từ 100,7 lên mức 105,0 và độ tuổi 20-24 tăng từ 94,3 lên 101,7.
4.2. Nghiên Cứu Về Tỷ Số Giới Tính Khi Sinh Tại Việt Nam Giai Đoạn 2000 2008
Năm 2009, Guilmoto và cộng sự đã tiến hành phân tích và so sánh 19 khá công phu mẫu điều tra biến động dân số thường niên kể từ năm 2000- 2007 dựa trên số liệu sinh đẻ của khoảng 461.000 phụ nữ Việt Nam, kết hợp với số liệu điều tra về số sinh tại cơ sở y tế năm 2007-2008 bao gồm khoảng 1,4 triệu trường hợp sinh. Kết quả cho thấy không có xu hướng bất thường của TSGTKS trước năm 2004 và thường dao động trong khoảng 104-109. Với mẫu các trường hợp sinh vào khoảng 25.000 mỗi năm, các tác giả ước lượng rằng sự biến thiên của TSGTKS giai đoạn trước 2004 cho phép chênh lệch trong khoảng + 3,5. Tuy nhiên, TSGTKS đã vượt ngưỡng 110 vào năm 2005 và giá trị TSGTKS của năm 2006 đã là 111,6 (+ 3,5) cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với giá trị bình thường về mặt sinh học.
V. Nguyên Nhân Mất Cân Bằng Giới Tính Văn Hóa Chính Sách
Mất cân bằng giới tính khi sinh không phải là một hiện tượng tự nhiên. Nó là kết quả của sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa, xã hội và kinh tế. Trong nhiều xã hội, đặc biệt là ở châu Á, có sự ưa thích con trai hơn con gái. Điều này xuất phát từ quan niệm con trai là người nối dõi tông đường, có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên và gánh vác kinh tế gia đình. Chính sách dân số, đặc biệt là chính sách một con ở Trung Quốc, cũng góp phần làm gia tăng tình trạng mất cân bằng giới tính.
5.1. Ảnh Hưởng Của Văn Hóa Đến Ưa Thích Con Trai
Trong nhiều nền văn hóa, con trai được coi là quan trọng hơn con gái vì nhiều lý do. Con trai thường được kỳ vọng sẽ chăm sóc cha mẹ khi về già, tiếp tục dòng họ và mang lại địa vị xã hội cho gia đình. Những kỳ vọng này có thể dẫn đến việc các gia đình ưu tiên con trai hơn con gái, và thậm chí sử dụng các biện pháp để đảm bảo rằng họ có con trai.
5.2. Tác Động Của Chính Sách Dân Số Đến Tỷ Lệ Giới Tính
Các chính sách dân số, chẳng hạn như chính sách một con ở Trung Quốc, có thể có tác động đáng kể đến tỷ lệ giới tính. Khi các gia đình chỉ được phép có một con, họ có thể cảm thấy áp lực phải có con trai. Điều này có thể dẫn đến việc lựa chọn giới tính thai nhi và phá thai chọn lọc giới tính.
VI. Giải Pháp Cải Thiện Tỷ Số Giới Tính Thay Đổi Nhận Thức Chính Sách
Để cải thiện tỷ số giới tính, cần có sự thay đổi trong nhận thức và chính sách. Cần nâng cao nhận thức về giá trị của con gái và xóa bỏ những định kiến giới. Đồng thời, cần có các chính sách hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái, đảm bảo quyền bình đẳng của họ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các biện pháp can thiệp cần được thực hiện một cách toàn diện và bền vững, với sự tham gia của tất cả các bên liên quan.
6.1. Nâng Cao Nhận Thức Về Giá Trị Của Con Gái
Một trong những giải pháp quan trọng nhất để cải thiện tỷ số giới tính là nâng cao nhận thức về giá trị của con gái. Điều này có thể được thực hiện thông qua các chiến dịch truyền thông, giáo dục và các chương trình cộng đồng. Cần nhấn mạnh rằng con gái cũng có khả năng đóng góp cho gia đình và xã hội như con trai.
6.2. Xây Dựng Chính Sách Hỗ Trợ Phụ Nữ và Trẻ Em Gái
Các chính sách hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái có thể giúp giảm bớt áp lực phải có con trai. Các chính sách này có thể bao gồm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, giáo dục và cơ hội việc làm cho phụ nữ. Cần đảm bảo rằng phụ nữ và trẻ em gái có quyền bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.